Tiểu sử
Duy Phi (1940-2013) tên đầy đủ là Nguyễn Duy Phi, quê ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Ông là nhà thơ, nhà văn và dịch giả. Duy Phi là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội VHNT Bắc Giang, hội viên Hội VHNT các Dân tộc thiểu số Việt Nam.
Phong cách nghệ thuật
Nhà thơ Duy phi mê mải kiếm tìm, tinh lọc cái đẹp cho nghiệp văn chương, suốt dặm đường làm "Người độc hành không nghỉ”. Cả đời, ông nhiệt huyết với nghề, với nghiệp, tận tụy học tập, nghiên cứu, tích lũy, trau dồi cho mình vốn tri thức sâu rộng (Đông, Tây, Kim, Cổ) để có đủ sức vẫy vùng trong biển cả văn chương, cho "Cánh buồm mở hướng” sẵn sàng chấp nhận phong ba bão táp, đi đến bến bờ vinh quang. Tháng ngày trải nghiệm tảo tần cùng văn chương, ông đã trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang).
Nhà thơ Duy Phi xuất thân trong một gia đình nông dân, làng Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh - một vùng quê giàu truyền thống văn hiến; một làng có "một ổ” văn nhân thi sĩ như: Nguyễn Phan Hách, Nguyễn Văn Chương, Duy Hợp, Duy Khoát…Khởi đầu, ông là một nhà giáo, từ những năm 60 của thế kỷ XX, trót đa mang với nghiệp văn chương, năm 1980 về đầu quân chuẩn bị thành lập Hội Văn nghệ Hà Bắc, bắt đầu con đường chuyên nghiệp với văn chương từ đấy.
Ông dành nhiều thời gian, tâm sức cho sáng tác, xuất bản văn chương. Nhiều năm liền, ông được Ban Biên tập Báo Bắc Giang mời tham gia biên tập trang thơ và câu đối Tết cho số báo Xuân. Ông giữ vai trò tổ chức, mời gọi bạn văn chương gửi tác phẩm rồi dành cả tuần lễ nghiền ngẫm cắt gọt "đánh bóng mạ kền” và phân loại. Cùng trang thơ theo chuyên đề, ông chọn chùm, nhóm thơ theo đề tài khác nhau như: Thơ thiếu nhi, Người cao tuổi, Quốc phòng - An ninh, Phụ nữ… Câu đối cũng được biên tập thật chỉnh, rõ thể loại, từng chủ đề đặt ở các trang cho nổi bật tính cô đọng, thúc giục như tâm phúc con người mùa xuân.
Mải chạy đua với công việc từng "mùa”, từng ngày đến khi bừng tỉnh, quay lại, muốn tập hợp các bài báo đã in, tuyển chọn thành một tập…
Tác phẩm:
· Lửa xanh (Miền quê quan họ) (NXB Tác phẩm mới, 1981)
· Cánh buồm mở hướng (thơ, NXB Thanh Niên, 1983)
· Đối thoại cùng sông (thơ, Hội VHNT Hà Bắc, 1984)
· Ngổn ngang trăm mối (thơ, NXB Hội nhà văn, 1992)
· Rêu thức (thơ, NXB Thanh Niên, 2000)
· Đêm thần minh (thơ, NXB Hội nhà văn, 2002)
· Vòm trời lưng nghé (thơ thiếu nhi, NXB Văn hoá dân tộc, 2005)
· Chóp nón đi nghiêng (thơ, NXB Hội nhà văn, 2006)
· Giọt nhũ (thơ, NXB Hội nhà văn, 2012)
Thơ
Gần và xa
Đêm cuối năm
Hoa bưởi
Dạ lan hương
Gần và xa
Thơ mới nhất
Tiếc
Nợ
Nhà xưa
Mai
Nhớ cành đào Quang Trung gửi về Huế
Nhận định
Trong văn chương, nhất là trong thơ chỉ khi nào viết đạt tới tầm cỡ: “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” thì mới được gọi là tuyệt bút (tuyệt hay), đôi khi mới được người ta suy tôn lên là hay nhất thế giới (còn có đúng là “nhất” hay không lại là chuyện khác), hay tới mức các thiên tài phải ngả mũ. Chả nhẽ hai câu thơ: “Trái đất ba phần tư nước mắt/ đi (trôi) như giọt lệ giữa không trung” liệt vào hàng các thiên tài phải ngả mũ mà lại chỉ hay ở mỗi chữ “đi” thôi sao? Lạ, lạ quá…! Lạ là ở chỗ đó đấy. Còn thưa ông Duy Phi câu thơ: “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của nhà thơ Khương Hữu Dụng đúng là hay nhất ở chữ “sáng” thật. Chính chữ sáng làm nên giá trị của câu thơ. Câu thơ: “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” có thể gọi là một câu thơ hay, nhưng hay tới cỡ nào? Có tới mức “các thiên tài phải ngả mũ” không? Đem hai câu thơ của Xuân Diệu đặt cạnh một câu thơ của ông Khương Hữu Dụng, cứ như đem hoa hậu thế giới đặt cạnh một cô gái hơi đèm đẹp rồi bảo là họ giống nhau (bằng nhau) vì đều gọi họ là “người đẹp” cả. Thế thì ai mà dám tin. Hoa hậu thế giới phải là “nhất” đã là nhất thì phải có yêu cầu cao hơn. Vậy thì những câu thơ hay nhất thế giới cũng vậy, cũng phải: “Lời lời châu ngọc…” chứ không thể hai câu thơ mà chỉ cần một chữ hay (chữ đi) là đủ, là đạt tới tầm “các thiên tài phải ngả mũ”. Nếu mà đúng vậy thì thế giới này kể sao cho hết những câu thơ như vậy!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét