Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

MAI THÌNH

Tiểu sử

Mai Văn Thìn sinh 1965 tại An Nhơn, Bình Định. Cử nhân ngoại ngữ, cử nhân khoa học ngành ngữ văn. Hiện đang phụ trách phòng văn nghệ Đài PTTH Bình Định

Hội viên Hội VNDG Việt Nam .Hội viên Hội nhà báo Việt Nam .Hội viên Hội VHNT Bình Định

Tác phẩm chính đã xuất bản:

-Cổ tích tình yêu (tập thơ) -Hội VHNT Đà Nẵng xuất bản 1991

-Hai mảnh yêu thương- ( tập thơ in chung với Quang Vĩnh Khương )- Hội VHNT Bình Định xuất bản 1992.

-Đồng quê ( tập thơ )- NXB Hội nhà văn -1999.

-Khúc Sơn Ca ( tập thơ )- NXB Hội nhà văn- 2005

-Văn hoá dân gian xã Nhơn Thành ( tập nghiên cứu biên khảo)- NXB Khoa học xã hội- 2004

Giải thưởng:

-Giải nhất thơ trẻ Bình Định 1990

-Giải thưởng VHNT Xuân Diệu- Đào Tấn lần 1 (1990-1995)

-Giải thưởng VHNT Xuân Diệu -Đào Tấn lần 2 (1995-2000)

Ra đi từ ngôi nhà tuổi thơ với ký ức làng quê sâu nặng, Mai Thìn đã mở rộng tầm nhìn của mình ra non sông, đất nước rộng dài, nội cảm những ba động của đời, ám ảnh những cổ mẫu, sự kiện đáng nhớ của hiện tại và quá khứ một cách triết mỹ. Rồi từ đó, anh quay về lại nơi xuất phát của mình để thức nhận về quê hương, dân tộc, con người một cách mới mẻ, có ổn định, nhưng có tái hiện, phục sinh từ những trầm tích ẩn sâu trong từng sự vật và chứng tích u trầm của lịch sử, văn hóa. Tôi gọi đó là sự ra đi cũng là sự trở về ngày càng giàu có, tin yêu trên hành trình tâm linh sự sống của Mai Thìn. Từ đó, trong anh hình thành thế giới hình tượng và ngôn từ chứa đựng những tư tưởng hiện sinh một cách nhân văn, thế sự trước dòng đời đang thao thiết chảy. Chất thơ đó định hình, và có biến đổi, bổ sung để làm thành sự vận động, phát triển thi pháp, làm nên phong cách thơ Mai Thìn.

Điều này thể hiện rõ qua thi tập mới nhất của anh: Tiếng chim về cũ do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2020. Tôi xem thi phẩm Nhà thơ nằm cuối tập, như là tuyên ngôn nghệ thuật của Mai Thìn để lần vào bên trong, bên xa câu chữ thi ca, tìm ra chất thơ của anh, bởi vì như anh đã tự thức nhận: “Đêm đêm anh rạc người với chữ/ vẽ nên gương mặt của nhà thơ”. Đối mặt với sâu thẳm lòng mình trong đêm anh đã “gọt dũa, tỉa tót những hình dung từ/ rồi đọc to lên/ ngắm nghía”, và tự nhận “anh như kẻ điên/ mê mải nặn trái tim mình/ bằng chữ”. Vậy là đã rõ, Mai Thìn muốn làm nhà thơ với tận cùng yêu thương, tận cùng chân thật bằng sự “bạo động chữ”, “tạo sinh nghĩa” để thành những thông điệp tình yêu và cuộc sống:

Thèm một câu thơ về loài hoa rũ tàn rồi bung nở

tôi chọn cà phê một mình

trong góc nhỏ nhìn ra ô cửa nhỏ

cây mai già trầm tư

chiêm nghiệm về phận người về nhân thế

mai còn một khoảng để vàng xuân

nhớ những gương mặt thật, mòn trong đời sống thật

tôi chọn cà phê một mình

những gương mặt yêu thương, trầm tích

của hôm nay và cả mai sau

đời quanh quẩn hơn thua hờn giận

vờn đau tròn quả địa cầu

tôi một mình

với cái bóng của mình

mòn nhau.

(Với cái bóng của mình)

Anh mê mải viết và tự “mòn” mình “với cái bóng của mình” bằng phép loại trừ, nhặt bỏ ra ngoài những gì là thừa thãi, rác rưởi, những gì là xa lạ với nhân vị, nhân sinh để giữ lại những hòa âm tốt đẹp của sự sống thật: “Mỗi ngày tôi nhặt từ trong tủ sách/ một vài trang rác/ một vài lời rác/ loại dần những điều không dùng đến/ những lời nói rỗng/ những con chữ rỗng/ xếp hàng từ hồi đi học”. Những gì không thuộc về thức nhận nhân văn, nhân ái của anh, chúng đã bị loại ra khỏi bộ nhớ thường nhật để còn lại những tinh hoa, tinh túy cho thơ, cho đời:

cứ thế từng ngày tôi nhặt từ tôi

những điều thừa

loại khỏi tôi

những cái bây giờ không còn thuộc về tôi nữa

cũng như mai đây

chỉ còn lại cái tên

dưới mỗi trang thơ

dưới mỗi bài thơ

mê mải

viết.

(Chỉ còn lại cái tên)

Cái tên dưới mỗi trang thơ, bài thơ không gì khác là tên nhà thơ. Một quyền của nhà thơ là quyền được vui buồn cùng nhân dân và cuộc sống. Với tâm nguyện như thế, Mai Thìn đã không bị khuất phục bởi cái xấu, cái ác để thẳng bước trên con đường của lẽ phải, của điều thiện. Ra đi từ “cổ tích tình yêu”* với “đồng quê”* tuổi nhỏ vang “khúc sơn ca”*, rồi sau đó, anh tự “lặng lẽ xanh”* trước “thiên đường thơm rèm cửa nhà mình”* để nhận ra “tiếng chim về cũ”* là một hành trình của tình yêu và sự sống mà ở đó Mai Thìn đã hiện hữu mình như một thi sĩ đầy tin yêu và sáng tạo.

Với một quan niệm nghệ thuật sáng rõ như thế, hẳn nhiên Mai Thìn đã xác lập và qui chiếu cho mình những tiêu điểm thẩm mỹ thơ để hình thành nội dung thơ, hình tượng thơ, ngôn từ thơ mang cá tính sáng tạo riêng. Trước hết, tôi muốn nói đến cảm thức hoài vãng trong thơ Mai Thìn. Đây có thể xem là chìa khóa để mở lối vào thơ anh. Nhìn lại, đồng hiện là cách tốt nhất để nhà thơ hiện hữu mình như một hiện sinh đích thực trong từng kinh nghiệm sống. Và như thế, thời gian không mất đi mà chính là thời gian được phục sinh những quan hệ quá khứ để mộng mơ vào tương lai mà trong từng khoảnh khắc đồng hiện chủ thể nhận ra:

Gần hết một đời

mong được đóa hoa thơm dâng tặng quê hương

đầu đã bạc

mỏi chân về lại ngàn xưa

bất chợt

dưới bóng quê nhà

tiếng chim ca

về cũ.

(Tiếng chim về cũ)

Ký ức sâu đậm trong anh là mẹ, là cha, là mái nhà xưa với bóng ngày qua càng rộng dài theo năm tháng. Đó là những hình ảnh và hình tượng thân thương, xao động nhất: “nhớ hàng râm bụt/ nhớ cây cau/ đã phải vì ta mà chịu khuất/ một khoảnh vườn xưa/ vương trong tim” (Nhớ nhà).

Cảm thức hoài vãng là sự vận động hình tượng thời gian chính trong thơ Mai Thìn. Anh thể hiện nỗi lòng mình và nhập vai để nói nỗi lòng người thân về nỗi nhớ quê day dứt: “Rã rời trong nỗi nhớ quê/ mẹ mang cau héo hong nhờ mái hiên/ dõi nhìn bóng nắng xiên xiên/ trầu têm nửa cánh ưu phiền nhạt vôi”. Bóng mẹ cha là tượng trưng cho bóng quê và những gì thiêng liêng nhất khi nghĩ về cội nguồn nơi chôn nhau cắt rốn:

một đời bóng mẹ toả quanh

cây lên thành trái, trái thành chúng con

bây giờ dáng mẹ hao mòn

vào ra thơ thẩn nhớ con, nhớ làng.

(Nhớ quê)



0 nhận xét:

Đăng nhận xét