Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2023

NGUYỄN DẠ TỪ

TRẦN VÀNG SAO


 

BẾ KIẾN QUỐC


 

TẠ VŨ


 

NGUYỄN TRUNG THU


 

VŨ HỮU ĐỊNH

NGUYỄN MỸ

QUÁCH TUẤN

TRIỆU TỪ TRUYỀN

NGUYỄN NHO KHIÊM

YẾN LAN

BÙI MINH QUỐC

PHÙNG QUÁN

TRANG HẠ

NGUYỄN NHẬT ÁNH

NGUYỄN NGỌC TƯ

NGUYỄN MINH CHÂU

THI HOÀNG


Tiểu sử

· Hoàng Thị (tên khai sinh là Hoàng Văn Bộ) sinh năm 1943 tại huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Năm 1967, khi đang là cán bộ kỹ thuật ngành giao thông vận tải, ông thực hiện lệnh gọi của Tổ quốc lên đường nhập ngũ rồi vào chiến trường miền Nam. Một thời gian sau, anh bị thương và được chuyển ra Bắc điều trị. Sau đó được giao cho Bộ GTVT TP Hải Phòng, rồi số được Bộ VHTT Hải Phòng đăng. Năm 1976, Thi Hoàng gia nhập Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng, làm biên tập tạp chí Cửa Biển cho đến khi nghỉ hưu năm 2004.

· • Thi Hoàng có bài thơ đã đăng trên báo Văn nghệ từ năm 1963 đến nay: “Trời xanh như ruột mà xanh, Cây xanh như vẹo”. Tuy không được lưu truyền rộng rãi nhưng thơ Thi Hoàng đã tạo được dư luận rộng rãi về sự cách tân chữ độc đáo, lạ và táo bạo trong cách diễn đạt. Năm 2007, anh được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho 4 tập thơ ca khúc: “Sóng đua”, “Ba phần tư trái đất”, “Vượt đèo gọi nhau” và “Gió nào ngang qua”.

· • Sử thi “ Gọi nhau qua ghềnh đá ”, viết về chiến tranh, chủ yếu viết về số phận người lính trong chiến tranh, là tác phẩm đặc biệt thành công của Thi Hoàng, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1996), giải thưởng Hải Giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật Phong tặng Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong tập tác phẩm đoạt Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007).

Tác phẩm đã xuất bản

· Nhịp sóng (1976)

· Ba phần tư trái đất, trường ca (1980)

· Nhịp sang (1982)

· Gọi nhau qua vách núi, trường ca (1995)

· Đóm đóm và sao (1997)

· Bóng ai gió tạt (2001)

· Cộng sinh với những khoảng trống (2005)

· Tuyển tập thơ Thi Hoàng (2014)

Giải thưởng

· Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1996)

· Giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam (2001)

· Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng

· Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007)

Quan điểm về thơ

· • Tôi cho rằng văn học nói chung và thơ nói riêng phải quyến rũ người đọc chứ không phải làm nản chí... Tôi ủng hộ cải cách thơ, nhưng đổi mới không đơn thuần là phá bỏ câu thơ, phá bỏ cấu tứ, phá bỏ ngữ pháp, tu từ. ... Như vậy, thơ chỉ là một mớ chữ, không thể tạo ra những câu thơ xé lòng người đọc, không thể tạo ra câu thơ vui buồn để người ta nghĩ ra hay chia sẻ khi cần.

Phong cách sáng tác

Viết thơ tốn hồn lắm

Đọc thơ Thi Hoàng có người cho rằng anh giỏi suy tưởng, nên cho ra những câu thơ bất ngờ, kiểu như: “Hoa sen không định thơm/Không định thơm thì mới thơm như thế/Rất tự nhiên là ta nhớ mẹ/Mẹ đã xa rồi/Để ta thành con cái của làn hương”. Thi sĩ có câu: “Nghe người điên hát lắm khi giật mình”. Không ít lần tôi giật mình khi đọc thơ Thi Hoàng, phải chăng đôi lúc anh sáng tác trong trạng thái… điên?

Anh chẳng phủ nhận mà còn nhiệt tình công nhận ý nghĩ đen tối của tôi: “Tôi quan niệm thế này, khi viết (viết ở đây được dùng như động từ của tất cả những người cầm bút, không phải riêng tôi) thì cố gắng không chỉ là nhìn thấy mà là cảm thấy. Bởi nếu chỉ diễn tả sự nhìn thấy, người cầm bút chỉ là rất khéo tả giỏi. Cố lặn xuống kiểu cảm thấy thì mới viết, tức là như cô nói, viết phải như điên lên”.

Tác giả Gọi nhau qua vách núi bật mí: “Tôi có một thực tế là nhà có người điên thật, chính là cô em gái ruột tôi. Thỉnh thoảng cô ấy pha nước cho tôi, tôi phải tránh, do sợ cô ấy đổ nước sôi vào mình, vì tưởng đầu anh là cái ấm. Quan niệm thơ ca cộng với thực tế, đã giúp tôi gặt hái được những câu mà người đọc thấy hay”.



Tất nhiên, cơn điên trong thơ Thi Hoàng là một cơn điên được kiểm soát khéo léo và chỉ bộc phát sau một thời gian cố gắng: “Chữ nghĩa tìm quán/ Ở chung xem có thành thơ/ có thuốc chữa. Tránh thai như Thơ/ Tranh luận về những cảm giác sai lầm". Anh kể: “Hồi còn sống, cùng Xuân Diệu nằm ở khách sạn, anh nói một câu mà thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến: “Em ạ (tức Thi Hoàng), làm một bài thơ hay nó tốn hồn lắm”.



Hồi đầu tôi nghĩ tốn tiền, tốn thời gian thì rõ nhưng hồn thì biết thế nào mà tốn. Sau này, mới thấy cách nói của anh, nhiều khi chỉ là buột khỏi mồm, sự ngẫu nhiên đó hóa ra đã được chuẩn bị từ rất lâu, đúc kết qua cả quá trình sáng tác”.

Thi Hoàng tự nhận anh có ưu điểm mà cũng là nhược điểm, đó là không dễ tưởng bở. Nhà thơ Hải Phòng thuộc thế hệ đàn em Mai Văn Phấn chia thơ Thi Hoàng ra hai thời kỳ: Thời kỳ hướng ngoại và thời kỳ hướng nội.



Anh bào chữa: “Cái mà Phấn viết phải nói thật, hơi quá lên so với cái mà tôi có. Điều này dễ thông cảm thôi, do nó yêu mình. Nhưng tôi tỉnh táo, ông khác sẽ tưởng bở, còn tôi biết, tôi chưa được thế đâu”.



Tuy nhiên tác giả cũng “tạm thời đồng ý với Mai văn Phấn” và hơi lo lắng cho thời kỳ hướng nội hiện nay: “Thời kỳ đầu là bản năng, thời kỳ sau mới ý thức, từ ý thức mới quay về nhìn mình được. Phải nói thời kỳ sau hoàn chỉnh hơn thời kỳ trước nhưng sự hoàn chỉnh ấy lại kèm theo nhược điểm: Sự già cả cũ kỹ”.



Như vậy, tập trường ca đang sáng tác của anh có nguy cơ không có đột biến? Anh trả lời thẳng thắn: “Có thể, ở tuổi tôi không đủ liều lĩnh để đi tán một cô gái trẻ nhưng tuổi trẻ thì có thể. Tuổi trẻ thường can đảm. Hồi trẻ, khi viết ta có thể hạ xuống lấy những chữ độc nhưng bây giờ già rồi lại thận trọng. Sự già làm cho mình không cả gan, không dũng cảm viết như trước”.



Rồi thi nhân đúc kết: “Bao giờ chả thế, trời cho cái nọ lại móc cái kia. Cái khó của tôi là làm thế nào để trẻ lại”. Vẫn có cách để giúp người ta trẻ lại, đó là tình yêu. Nói đến tình yêu Thi Hoàng lại lắc đầu.

HỒNG NGUYÊN


Nhà thơ Hồng Nguyên, sinh năm 1924, mất năm 1954, có tên thật là Nguyễn Văn Vượng. Quê gốc : xã Đức Thọ, huyện Đông Sơn, Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc TP Thanh Hóa. Vì nhà nghèo chưa học hết bậc THPT, Hồng Nguyên đã phải bỏ học để kiếm sống bằng nghề gia sư.

Ngay từ khi mới xuất hiện, "Nhớ" của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi nhiều lớp người đọc theo năm tháng.



Hồng Nguyên tên thật là Nguyễn Văn Vượng, sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở Lò Chum ven đô thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hoá). Gia cảnh túng bấn, anh phải bỏ dở dang việc học trung học để kiếm sống. Miếng cơm manh áo của đời thường đã làm anh vất vả ngược xuôi. Nguyễn Văn Vượng đã gặp những người làm báo, làm văn những cán bộ Việt Minh và anh đã trở thành một cán bộ văn hoá. Anh viết cho báo Tiến của Việt Minh Thanh Hóa, làm biên tập cho báo Dân Mới của Việt Minh bốn tỉnh: Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình, làm thơ đăng báo và làm Trưởng Ty Văn hóa Thanh Hóa. Thơ anh ngày ấy giàu tính ước lệ theo kiểu "gác bút nghiên theo việc đao cung" của "chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt". Tôi đã nghe nhà văn Minh Đệ là bạn anh đọc thơ thì phải nhận rằng: Đúng là Hồng Nguyên có bài "Nhớ" là hay hơn cả. Hay đến mức được xếp ngang hàng với thi nhân hàng đầu của thời 9 năm chống Pháp.

"Nhớ" được ra đời giữa năm 1948 lúc đó Nguyễn Văn Vượng là Trưởng Ty Văn hóa Thanh Hóa. Trước đó anh được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành hội văn hóa cứu quốc Liên khu 4. Chi hội văn nghệ Liên khu 4 ra Thanh Hóa tổ chức trại sáng tác và trao giải thưởng "văn nghệ Lam Sơn". Trong cuộc thi đó Vũ Tú Nam được giải nhất về Văn còn Nguyễn Văn Vượng về thơ. Mỗi giải một nghìn đồng bạc tài chính (số tiền đó có thể ăn tàm tạm được hai tháng).

Sau "Nhớ" người ta gọi Nguyễn Văn Vượng là Hồng Nguyên đến nỗi thiên hạ quên cả cái tên cha mẹ đặt cho anh. Con người của Hồng Nguyên là con người sinh ra để nhận lấy cái vất vả và đau khổ. Anh làm trưởng Ty nhưng đời sống của trưởng Ty hồi ấy làm gì có hơn nhân viên, lương tháng hơn 40 kg gạo lại phải độn gần nửa ngô, sắn. Tài sản của Ty Văn hoá là mấy chiếc bàn gỗ tạp, mấy tờ báo Sự Thật, Cứu Quốc, Thép mới, chống giặc... không xe cộ - không điện thoại...

Cái giây phút cuối của cuộc đời thi nhân đã đến, bệnh tật và túng đói đã đưa anh về với ông bà tổ tiên. Ngày "độc lập" mà anh hằng mong ước đã gần kề. Anh vĩnh viễn ở lại một làng nhỏ, bên con sông nhỏ lưu lượng bất thường. Không biết mấy ngàn tuổi sông ơi mà tính khí bất thường như thế. Mùa mưa tuôn tràn thác lũ, còn đông về thì lạnh lẽo co ro.

Những người dân quê nghèo lam lũ, chưa biết chữ đã đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Họ không biết anh là thi sĩ, cũng không biết anh có bài thơ "Nhớ" mà sau này người ta xem là một trong 8 bài thơ trữ tình hay của thời mà họ đang sống. Còn sống năm nay anh đã 93 tuổi, đã là thượng thượng thọ rồi, còn bài thơ đã đứng vững 70 năm (Hồng Nguyên sinh năm 1924).

Cách đây hơn 20 năm tôi và Hoàng Hùng bàn nhau đi tìm mộ của Hồng Nguyên, nhưng không ai biết giờ anh an nghỉ ở đâu? Số mệnh đối với anh thật sự cay nghiệt, tinh thần lạc quan yêu đời của anh thật lãng mạn, niềm tin của anh ở đồng đội, ở nhân dân là không bờ bến.

Khi biết chúng tôi đi tìm mộ Hồng Nguyên nhiều cụ ông, cụ bà đã cùng đi để chỉ dẫn. Ai chỉ chỗ nào chúng tôi cũng đào - quan tài có dấu tích gì? Hàng mấy chục ngôi mộ hầu như không có quan tài, mà có thì sau gần nửa thế kỷ, những tấm gỗ tạp cũng đã trở thành đất. Bà con mách phải tìm ngôi mộ nào có nhiều vôi bột bởi Hồng Nguyên chết vì bệnh lao, lúc chôn bà con đổ xuống huyệt nhiều vôi.

Chúng tôi bàn nhau, mảnh đất chôn cất Hồng Nguyên chỉ có mấy chục mét vuông, mấy ngôi mộ vô chủ, nên làm tường rào và tìm ngôi mộ đã chôn có nhiều vôi, đắp điểm và dựng lên tấm bia có lời dân chúng dặn dò những người lính.

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

"Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!"

Có một lần tôi hỏi nhà văn Minh Đệ:

- Cái buổi trao giải thưởng cho nhà thơ" “Nhớ" anh có nghe Hồng Nguyên phát biểu và ngâm bài thơ ấy không?

- Hồng Nguyên phát biểu về những kỷ niệm đi lấy vốn sống để viết thơ.



Bài thơ dài 62 dòng, dòng dài nhất có 10 chữ “mẹ già bắt chấy cho con nhỏ” và có ít nhất hai chữ (Đằng không). Chia làm ba khổ thơ có liên hệ với nhau, đoạn triết lí, mở, khép và phát triển ở giữa thân bài. Toàn bộ bài thơ nói về hoạt động chiến đấu của những người lính Vệ quốc quân trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tôi (nhà văn Minh Đệ) là lính của Hồng Nguyên, lúc đó Hồng Nguyễn đã là đảng viên, đã từng tham gia Việt Minh, là Trưởng Ty Thông tin, tuyên truyền. Anh đi theo bộ đội để lấy vốn sống và viết. Viết một mạch;

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi "một", "hai"

Súng bắn chưa quen

Quân sư mươi bài

Rồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Anh nói:

Những con người ấy vừa chui ra khỏi luống cày, từ sau lũy tre làng, cũng giống như những người lính trong thơ Chính Hữu, từ đồng mặn, ruộng chua, từ lưỡi cày đến sỏi đá, tụ hội về đây cùng tiếng đàn. âm thanh. thiêng liêng và trở thành đồng đội. Ngoài tinh thần lạc quan và ý chí đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, họ hầu như không có trang bị, vũ khí gì đáng nói.

Tôi đã nghe nhà văn Trịnh Thanh Sơn giới thiệu về bài thơ "Nhớ" và tác giả của nó. Lúc đó vào những ngày kháng chiến Chống Mỹ gian nan. Trịnh Thanh Sơn và tôi cùng công tác ở một trường sư phạm. Sơn nói: Trong cuộc hành quân liên miên của những người chiến sĩ thỉnh thoảng trong tâm trí mỗi người, hình ảnh quê nhà cũng hiện lên trong nỗi nhớ.

Hồng Nguyên sáng tác ở nhiều thể loại khác nhau, trong đó tiêu biểu là thơ và tiểu luận văn học. Trong tác phẩm Hồng Nguyên để lại (Hồn thơ Việt Nam; Đời anh nông dân vô Nam; Nhớ; Những khẩu hiệu trong đêm), bài thơ "Nhớ" là mộtbài thơ tiêu biểu trong các bài thơ viết về cuộc kháng chiến chống Pháp. "Nhớ" cũng là bài thơ ghi dấu ấn phong cách sáng tác thơ Hồng Nguyên.

"Nhớ" là một bài thơ hay về người lính, đã tồn tại trên thi đàn Việt Nam 70 năm và sẽ còn mãi mãi với chúng ta.

MINH HUỆ


Minh Huệ (3 tháng 10 năm 1927 – 11 tháng 10 năm 2003) là một nhà thơ Việt Nam hiện đại. Ông được biết đến với tập thơ “Đêm nay Bác không ngủ” và được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật của Nhà nước Việt Nam với 3 tập thơ: “Đêm nay Bác không ngủ” (1985); Bài ca đất nước (1959); Vùng đất chiến hào (1970). Ngoài bút danh Minh Huệ, ông còn có các bút danh khác là "Mai Quốc Minh, Nguyễn Thái".

Minh Huệ có tên thật là Nguyễn Đức Thái, sinh ngày 3 tháng 10 năm 1927 tại Bến Thuỷ, ngày nay thuộc phường Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Ông hoạt động cho Việt Minh từ tháng 5 năm 1945 và góp phần giành chính quyền ở Nghệ An trong Cách mạng tháng 8 năm 1945. Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương, ông hoạt động chính trị, văn nghệ tuyên truyền, giáo dục ở Nghệ An, khu uỷ khu Bốn và một số địa phương. Ông bắt đầu sáng tác năm 1951, khi mới 24 tuổi. Ông hiện là Chủ tịch Hội sáng tác Văn nghệ liên khu IV, Trưởng ban nghiên cứu, lý luận và phê bình; Văn học dịch Nhà xuất bản văn học, Uỷ viên Thường vụ kiêm Trưởng ty Văn hoá Nghệ An.

Sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giải phóng hoàn toàn miền Bắc, ông tiếp tục học và tốt nghiệp Đại học Văn, được bầu là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957) và Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật. , Ủy viên BCH Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (1984-1991).

Minh Huệ mất ngày 11 tháng 10 năm 2003.

Những tác phẩm của ông

Tác phẩm gồm : Tiếng hát quê hương (thơ – 1959), Rừng xưa, rừng nay (bút ký – 1962), Đất chiến hào (thơ – 1970), Màu xanh đến (thơ – 1972), Ngọn cờ Bến Thủy (truyện ký – 1974 – 1979), Người mẹ và mùa xuân (truyện ký – 1981), Đêm nay Bác không ngủ (thơ – 1985), Phút bi kịch cuối căng (tiểu thuyết – 1990), Thưởng thức thơ viết về Bác Hồ (tiểu luận – 1992), Ngôi sao bầu bạn (truyện vừa – 1995) cùng nhiều bài thơ, bài viết đăng trên các báo chí TƯ và địa phương.

Ban đầu, do yêu cầu của hoạt động tuyên truyền, Minh Huệ đến với văn học trước hết là để làm về (5 chữ), hò Nghệ An, ca dao, viết tùy bút. Những năm 1947 – 1948, ông viết nhiều kịch bản sân khấu (kịch nói và kịch thơ) để có tiết mục biểu diễn. Với kịch, Minh Huệ thường khai thác đề tài từ hiện thực cuộc kháng chiến gian khổ ở Bình Trị Thiên và chuyện lịch sử như Nguyễn Huệ, Trần Quốc Toản… Cho đến tận bây giờ, ông vẫn sáng tác theo nhiều thể loại khác nhau : truyện, thơ bút ký, tiểu thuyết, tiểu luận phê bình, hồi ký…, song bạn đọc rộng rãi biết đến một Minh Huệ chủ yếu là do những sáng tác thơ, mà trước hết là bài Đêm nay Bác không ngủ. Bài thơ nổi tiếng này được Minh Huệ sáng tác từ trong kháng chiến chống Pháp (1951), nhưng cho đến nay nó vẫn được thế hệ sau đón đọc với một tình cảm trân trọng mến yêu. Các thế hệ bạn đọc đều cảm nhận được từ bài thơ này một thái độ chân tình và thành kính, một tình cảm nồng hậu thiết tha của tác giả đối với “cha già dân tộc”. Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thơ viết về Bác Hồ chưa nhiều, trong bối cảnh đó, Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ có một ý nghĩa rất lớn. Bài thơ đã khắc họa rất thành công hình ảnh cao đẹp, vĩ đại mà rất đỗi gần gũi thân thương của Bác Hồ. Nó ra đời và được phổ biến rất sâu rộng. Cho đến hiện nay, nói đến những bài thơ hay viết về Bác Hồ, không thể không nói tới bài Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ.

Ban đầu, do yêu cầu của công tác tuyên truyền, Minh Huệ lần đầu đến với văn chương (5 chữ), ca dao Nghệ An, dân ca và viết văn. Năm 1947 - 1948, ông viết nhiều vở kịch (tác phẩm truyền miệng và thơ ca) để biểu diễn. Trong các vở kịch, Minh Huệ thường viết các đề tài về hiện thực cuộc kháng chiến gian khổ ở Bình Trị Thiên và các phóng sự lịch sử như Nguyễn Huệ, Trần Quốc Toản... Cho đến nay anh vẫn sáng tác ở nhiều thể loại khác. Truyện ngắn, thơ, hồi ký, tiểu thuyết, tiểu luận phê bình, hồi ký… nhưng nhiều độc giả biết đến một Minh Huệ chủ yếu từ những sáng tác thơ của ông, mà đầu tiên là bài Bác Hồ không ngủ. Bài thơ nổi tiếng này được Minh Huệ sáng tác trong thời kỳ Kháng chiến chống Pháp (1951) nhưng cho đến ngày nay vẫn được người đời sau đọc lại với một tấm lòng trân trọng và yêu mến. Nhiều thế hệ người đọc đã cảm nhận được ở bài thơ này một thái độ chân thành, kính trọng, một tình cảm nồng ấm, thiết tha của tác giả đối với “vị cha già của Tổ quốc”.Những bài thơ viết về Bác Hồ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp không nhiều, và bài Bác Hồ không ngủ của Minh Huệ có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh đó. Bài thơ đã khắc họa rất thành công hình ảnh Bác Hồ cao đẹp, rộng lớn và rất gần gũi. Nó ra đời và lan truyền rất rộng rãi. Nhắc đến những bài thơ hay viết về Bác Hồ không thể không nhắc đến bài hát Đêm nay Bác không ngủ của tác giả Minh Huệ.


TRẦN ĐĂNG KHOA


Trần Đăng Khoa (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1958) , người làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương ông là một nhà thơ, nhạc sĩ kiêm tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội và Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Ông từng là Trưởng ban Văn hoá Nghệ thuật kiêm Giám đốc Hệ Phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam và Phó Chủ tịch chuyên trách Đảng bộ Đài Tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch Liên hiệp VHNT Hà Nội. Ông cũng là Trưởng Ban Tổ chức và Hội đồng Chỉ đạo Toàn quốc của cuộc thi Viết thư thế giới UPU ở Việt Nam từ năm 2016 đến nay, kế nhiệm cho Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (Nguyễn Trí Huân) .

Tiểu sử

Còn trẻ, ông đã được mọi người gọi là thần đồng thơ văn [4] . Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được in báo. Năm 1968, lúc mới 10 tuổi, tác phẩm thơ đầu tay của ông: Ở góc sân em (bài thơ tiếp theo là Mảnh vườn và khoảng không) được nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. Tố Hữu tác phẩm nhiều bạn đọc nhắc đến nhất của ông là tập thơ "Hạt gạo làng ta", xuất bản năm 1968, được chính Xuân Diệu phổ và sau này được nhạc sỹ Trần Viết Bính soạn lời (1971) .

Ông cũng được nhắc đến nhất với chuyện lúc mới lên 10 tuổi đã đề xuất sửa câu "Đường em chỉ rộng hơn tám mét" sang "Đường xa rộng thênh thang anh bước" trong tập thơ ca Ta tiến tới của thi sĩ lừng danh khi đó là Tố Hữu.

Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26/2/1975 khi đang học lớp 10 Trường THPT Nam Sách, thuộc Tiểu đoàn 691, Trung đoàn 2 Tăng cường Hải Hưng. Sau khi đất nước thống nhất, không cần bổ sung bộ đội vào chiến trường nữa, nó được bổ sung vào lực lượng Hải quân, cũng chiến đấu trên chiến trường Tây Nam Bộ những năm 1978-1979. Sau đó ông theo học Trường Văn khoa Nguyễn Du và được cử đi học tại Viện Văn học thế giới M.

Gorki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi đã về hưu ông làm tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã đeo quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển về làm việc tại Đài tiếng nói Việt Nam và giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam ra mắt Hệ phát thanh có hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và hiện nay là Kênh truyền hình Văn hoá - Du lịch Vietnam Jouney) thì ông được bổ nhiệm làm Giám đốc đầu tiên của hệ này. Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được giao cho ông Vũ Hải – Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để ông chuyển qua làm Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khoá IX.

Tác phẩm

Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm nổi bật và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề tồn tại hay được tiếp nối trong quãng đời về sau khi nhà thơ lên đường nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước trở thành biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời không là động lực cho cảm xúc khi tác giả đã lớn tuổi. Những tác phẩm tiêu biểu của Trần Đăng Khoa:

Từ góc sân nhà em, 1968.

Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, 107 bài thơ, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới.

Đi đánh thần Hạn, trường ca 4 chương, 1970.

Thơ Trần Đăng Khoa (tập 1), tuyển tập thơ, 1970.

Trường ca Trừng phạt, trường ca, 1973.

Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.

Trường ca Giông bão, trường ca, 1983.

Thơ Trần Đăng Khoa (tập 2), tuyển tập thơ, 1983.

Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986, 26 bài thơ.

Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.

Bài "Thơ tình người lính biển" đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc.

Đảo chìm, tập truyện - ký, 2000, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.

Hầu chuyện Thượng đế, đàm thoại văn học, 2015, gồm 80 bài.

Đảo chìm Trường Sa, tuyển tập thơ văn, 2016.

Giải thưởng

Ông đã ba lần được Giải thưởng thơ Báo Thiếu niên Tiền phong (1968, 1969, 1971), Giải Nhất Báo Văn nghệ (1982), Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2001).

Gia đình

Trần Đăng Khoa có anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh, tác giả các tập thơ “Thi nhân và hoa”, “Sức khỏe hoang dã”, “45 tiếng đàn vô danh”. ., nguyên là Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Người chị là Trần Thị Bình hiện sống ở quê với mẹ của nhà thơ.Anh còn có một người em gái là Trần Thị Thùy Giang, hiện là giáo viên ở TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

NGUYỄN PHAN QUẾ MAI


Nguyễn Phan Quế Mai (sinh năm 1973) là một nữ nhà văn, nhà thơ người Việt Nam và là tác giả đồng hành của tổ chức Room to Read. Cô là tác giả và dịch giả của 18 quyển sách. Cô sáng tác bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt. Các tác phẩm tiếng Việt của cô đã đoạt được các giải thưởng như Giải thưởng thơ năm 2010 của Hội Nhà Văn Hà Nội cho tập thơ Cởi Gió, Giải Nhất Cuộc thi Thơ 1,000 năm Thăng Long-Hà Nội, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô. Cô cũng có nhiều bài thơ được phổ nhạc trong đó bài thơ Tổ quốc gọi tên được phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng Tổ quốc gọi tên mình. Bắt đầu sáng tác bằng tiếng Anh trong thời gian gần đây, Quế Mai là tác giả của tiểu thuyết The Mountains Sing (Những ngọn núi ngân vang) đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế và trở thành một cuốn sách bán chạy toàn cầu. Quyển tiểu thuyết thứ hai bằng tiếng Anh của cô Dust Child (Bụi đời) sẽ được ấn hành vào năm 2023.

Cuộc đời

Nguyễn Phan Quế Mai sinh năm 1973 tại Ninh Bình trong một gia đình có bố mẹ vừa làm nghề giáo, vừa làm nghề nông. Năm 1979, gia đình cô di cư vào miền Nam và định cư ở Bạc Liêu vì nhận thấy điều kiện ở đây thuận lợi để phát triển. Mặc dù bị kì thị nhưng việc tiếp xúc với văn hóa hai miền đã giúp Quế Mai trở nên thấu hiểu và đồng cảm với những người xung quanh mình.Niềm đam mê văn chương bộc lộ trong cô từ sớm. Năm lên 10, cô giấu gia đình tham gia một cuộc thi văn học và đoạt giải. Vì gia đình không ủng hộ sự nghiệp văn chương và cũng vì gia cảnh nghèo nên Quế Mai gác lại ước mơ cầm bút và dành thời gian giúp đỡ gia đình. Với kết quả học tập tốt, cô giành được học bổng của chính phủ Australia. Năm 1992, Quế Mai tốt nghiệp thủ khoa ngành Quản trị kinh doanh Đại học Monash, Úc. Sau khi ra trường, cô tham gia công việc truyền thông đại chúng và hợp tác với các chương trình phát triển Việt Nam và khu vực. Đến năm 2007 thì cô đồng sáng lập và điều hành nhóm tình nguyện Chắp cánh ước mơ để giúp đỡ các bệnh nhi ung thư. Sau đó, cô theo học thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành viết văn (từ xa) với Đại học Lancaster, Anh Quốc.[Năm 2021, cô trở thành thành viên của tổ chức Room to Read.

Sự nghiệp

2008-2014: Trái Cấm, Thư Giãn và Bí Mật Bông Sen Năm 2008, Nguyễn Phan Quế Mai bắt đầu gây chú ý trên thi đàn văn học Việt Nam với tập thơ đầu tay Trái Cấm. Năm 2010, anh xuất bản tập thơ thứ hai mang tên Thư giãn. Tập thơ đã giúp Quế Mai đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội. Cũng trong năm này, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ Hà Nội với chùm thơ Hà Nội, Những ngôi sao của ảnh Quảng Ngãi, Tạ Phố.Năm 2014, tập thơ Bí mật hoa sen của chị được BOA Editions xuất bản tại Mỹ, giúp chị trở thành tác giả Việt Nam đầu tiên xuất bản sách từ nhà xuất bản này và trở thành nhà thơ Đông Nam Á. Tuyển tập các bản dịch của Lan Nam.

2015: Tổ quốc gọi tên tôi. Năm 2015, Nguyễn Phan Quế Mai cho ra đời tập thơ Tổ quốc gọi tên tôi. Tập thơ bao gồm 99 bài thơ, có bài thơ Tổ quốc gọi tên ra đời năm 2011. Bài thơ được nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn phổ nhạc trở thành bài hát Tổ quốc gọi tên mình. Bài hát hiện nay được các tầng lớp nhân dân yêu thích. 2019 - Nay: Tiểu thuyết đầu tay Khi ngọn núi lên tiếng.

Năm 2019, Quế Mai xuất bản quyển sách mới Trên đỉnh núi ngân vang. Tác phẩm nói đến một số vấn đề lịch sử của Việt Nam kỉ 20 qua thân phận những người con bốn đời của gia đình nhà Trần. Cuốn sách đã được chuyển thể sang 10 nước và giành 6 giải thưởng thế giới, trong đó có giải Nhì (runner-up) của Giải thưởng văn học Dayton về hoà bình năm 2021và từ đấy đã thành một quyển sách ăn khách quốc tế. Cuối năm, cô xuất bản tiểu thuyết Lòng sâu.

Cuốn tiểu thuyết thứ hai của Quế Mai, Đứa con trong bụi, ghi lại những trải nghiệm của anh chị em lai và gia đình của họ ở Việt Nam, cũng như những ám ảnh kéo dài của Chiến tranh Việt Nam. .

Gia đình

Quế Mai lấy chồng người Đức và có hai con, con gái đầu là Mai Clara và con trai là Minh Johann. Cô đã cùng con gái viết quyển sách thiếu nhi Mun ơi, chạy đi!

Tác phẩm tiêu biểu của bà :

TỔ QUỐC GỌI TÊN

Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình

Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá

Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả

Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây

Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi

Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ

Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã

Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông

Ngày hôm nay kẻ lạ mặt rập rình

Chúng ngang nhiên chia cắt tôi và Tổ quốc

Chúng dẫm đạp lên dáng hình đất nước

Một tấc biển cắt rời, vạn tấc đất đớn đau

Sóng chẳng còn bình yên dẫn lối những con tàu

Sóng quặn đỏ máu những người đã mất

Sóng cuồn cuộn từ Nam chí Bắc

Chín mươi triệu môi người thao thức tiếng “Việt Nam”

Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng

Để giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tố

Ngọn đuốc Hòa bình trên tay rực lửa

Tôi lắng nghe

Tổ quốc

gọi tên mình.

PHAN VŨ


Sinh năm 1926 ở thành phố biển Hải Phòng, Phan Vũ bộc lộ tài hoa từ độ mới đôi mươi. Sau thời gian công tác văn nghệ Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp, năm 1954 ông ra miền Bắc, công tác tại Xưởng phim truyện Việt Nam và sống ở Hà Nội. Xông xáo ở cả lĩnh vực sân khấu và điện ảnh, nhưng thi ca mới là mảnh đất neo đậu tên tuổ

i của ông. Bài thơ khởi nghiệp Bình vỡ ông viết năm 1956 đầy thảng thốt: “Chỉ còn màu xanh trong từng mảnh nhỏ/ Sao đâu đây phảng phất mùi hương thơ ngây”. Giấc mộng thơ phú của Phan Vũ bấy giờ chủ yếu xoay quanh nỗi niềm riêng tư, kiểu như: “Chưa ra đi sao đã nhớ nhà/ Ngoảnh mặt lại thấy đời đã lỡ!”. Cho tới cuối năm 1972, chân dung thi nhân Phan Vũ bất ngờ hiện rõ khi bài thơ Em ơi, Hà Nội phố ra đời trên căn gác nhỏ phố Hàng Bún vào cái ngày Thủ đô chìm trong mưa bom B-52.



Ngoài những câu được đưa vào ca khúc Em ơi, Hà Nội phố, phần còn lại của 15 đoạn thơ kia như thế nào? Đoạn thơ thứ 8 có giá trị như một bài thơ hoàn chỉnh: “Em ơi Hà Nội phố! Ta còn em khuya phố mênh mông/ Vùng sáng nhỏ/ Bà quán ê a chuyện nàng Kiều/ Rượu làng Vân lung linh men ngọt/ Mắt cô nàng lúng liếng đong đưa/ Ngơ ngẩn bao chàng trai Kẻ Chợ/ Cơn say quá dài thành một cơn mê...”. Có không ít đoạn thơ la đà kể lể, nhưng thỉnh thoảng bật lên những câu ấn tượng. Đoạn thơ thứ 10 giàu chất điện ảnh: “Ta còn em một tên thật cũ Cổ Ngư/ Chiều phai nắng/ La đà cành phượng vĩ/ Bông hoa muộn in hình ngọn lửa”. Đoạn thứ 14 nhận diện sự thay đổi trên mảnh đất ngàn năm văn hiến: “Ta còn em một Hàng Đào/ Không bán đào/ Một Hàng Bạc/ Không còn thợ bạc/ Đường Trường Thi/ Không chõng không lều/ Không ông nghè bái tổ vinh quy”. Đoạn thứ 17 phác họa bức tranh phong cảnh trầm mặc và run rẩy: “Ta còn em đường lượn mái cong/ Ngôi chùa cổ/ Năm tháng buồn/ Xô lệch ngói âm dương”...

Năm 1990, Phan Vũ vào định cư tại Sài Gòn và không ngần ngại bày tỏ mong muốn viết cho đô thị sầm uất phương Nam này một bài thơ dài có sức lan tỏa tương đương Em ơi, Hà Nội phố. Đáng tiếc, thi ca lắm lúc giống như món quà của định mệnh, không thể cưỡng cầu bằng kinh nghiệm và sự nỗ lực.

Sau thời thăng hoa cùng Em ơi, Hà Nội phố, Phan Vũ có hai cơn cớ để làm thơ là hai người phụ nữ ơn nghĩa phu thê với ông: Phi Nga và Diễm Chi. Từ năm 22 tuổi đã nổi tiếng với vai Hoài trong bộ phim Chung một dòng sông, diễn viên Phi Nga tiếp tục tỏa sáng qua các bộ phim Vật kỷ niệm, Trên vĩ tuyến 17, Rừng O Thắm, Vợ chồng anh Lực, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm... Sau khi đám cưới với Phan Vũ được 2 năm và sinh cho ông 2 người con thì Phi Nga phải rời khỏi màn ảnh vì căn bệnh tim bẩm sinh. Rồi một cơn tai biến đã khiến bà phải nằm một chỗ. Phan Vũ đã chu đáo và ân cần chăm sóc người vợ đau ốm suốt 20 năm, cho đến khi bà qua đời ở tuổi 49.

Ngày vợ mất, Phan Vũ viết bài thơ Đã có lần anh nói thương em với đề từ “Gửi theo hương hồn Phi Nga” nhiều day dứt: “Câu nói buồn hơn tiếng khóc/ Nước mắt vẫn là chút trống không/ Hòn đá nhỏ lăn vào vô định/ Lời chì chiết tội tình/ Giữ lại mãi trong anh”. Một thập niên sau, ông viết bài Tháng vỡ vào năm 1995 với đề từ “Lại gửi theo Phi Nga” vẫn đầy bịn rịn hình bóng cũ: “Tờ lịch chia thành từng tháng vỡ/ Vô nghĩa ngày xuân hay tháng hạ”. Đến năm 2000, Phan Vũ có thêm bài Tưởng như với đề từ “Gửi theo Phi Nga” chất chứa hoài niệm: “Tưởng như em vẫn nằm trên đệm cỏ/ Căn phòng ghi dấu giấc mơ xưa/ Những mùa thu cây bàng đổ lá/ Vàng khung cửa sổ/ Anh sống hôm nay nửa ảo nửa đời/ Chiêm bao ban ngày đôi mắt mở...”.



Người vợ thứ hai Diễm Chi lại mang đến cho Phan Vũ một thiên tình sử đáng trầm trồ. Từ vai trò một đồng nghiệp với con gái của nhà thơ, nhà báo Diễm Chi đã gặp gỡ và phỏng vấn tác giả Em ơi, Hà Nội phố, để rồi nảy nở duyên nợ ba sinh. Năm 1998, Phan Vũ viết ba bài thơ có chung một cách đề từ “Của Diễm Chi”. Đó là bài thơ Sự chồi sinh của nỗi nhớ ngỡ ngàng hạnh phúc: “Em ra đi không khép cửa/ Cơn gió lạc vào căn phòng trống/ Mây mù báo hiệu mưa khuya/ Anh nhặt cánh hoa khô trên nền ẩm/ Sự khao khát cồn cào nổi lên trong nín lặng…”. Đó là bài thơ Đợi một mùa sau náo nức điềm lành: “Thời tiết yêu chợt mưa chợt nắng/ Phần riêng em một trận gió cuồng/ Lặng lẽ em vào khu rừng cấm/ Khai quật nỗi niềm/ Bới tìm lõi đá…”. Và đó là Chân dung em nâng niu đồng hành: “Ta vẽ em/ Ngơ ngơ đôi mắt dại/ Mê man đón đợi cuộc tình đầy”. Năm 1999, hai người tổ chức đám cưới khi Phan Vũ 73 tuổi còn Diễm Chi 37 tuổi.

Những năm cuối đời, Phan Vũ dành nhiều đam mê cho hội họa. Ở thế giới sắc màu, ông cũng tìm được không ít tri tâm. Thế nhưng, theo hành trình Phan Vũ hăm hở theo đuổi nhiều loại hình nghệ thuật khác, thì công chúng vẫn thấy Phan Vũ ở lại với thơ. Qua thơ, công chúng mới hiểu trọn vẹn vui buồn của ông. Bài thơ Tôi vẽ viết năm 1996, Phan Vũ thổ lộ: “Tôi vẽ mặt hề/ Trong những cuộc tình vô vọng/ Một tôi đích thực”.

Bài thơ Độc hành viết năm 1997, Phan Vũ khắc khoải: “Người ấy đi một mình/ Khuôn mặt chia hai nửa/ Một nửa đầy mặt trời/ Một nửa ngả hoàng hôn/ Ngày qua không khác hơn/ Tháng năm dài lặp lại”. Bài thơ Tự họa viết năm 2001, Phan Vũ thở dài buông bỏ: “Gã - con ngựa quên hiệu còi khởi chạy/ Phi thật nhanh nhưng chệch đường đua/ Ngày ra đi một kẻ dại khờ/ Ngày trở về da mồi tóc bạc/ Nguyên xi thằng khờ dại/ Gã - đứng giữa ngày tàn chiều tận/ Trên thân đau nếm đủ lằn roi/ Đòn hội chợ của đám đông không thù oán/ Khi cô đơn chính là hình án/ Giữa chợ trời còn rao bán tài hoa”...

Thi nhân tài hoa Phan Vũ đã lên chuyến tàu về miền vô định, nhưng Em ơi Hà Nội phố - những hoài niệm yêu thương gan ruột về mảnh đất nghìn năm văn hiến chắc chắn sẽ còn mãi trong lòng những người yêu Hà Nội.

THANH QUẾ


Nhà thơ Thanh Quế tên thật là Phan Thanh Quế, sinh ngày 26 tháng 2 năm 1945 ở làng Phú Thạnh, xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sanh ra đời trong một gia đình có truyền thống cách mạng nhưng không ai theo nghiệp văn chương.

Năm 1954, ông theo gia đình di cư ra Bắc, vào học ở Trường học sinh miền Nam. Năm 1963, ông thi đỗ khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đến năm 1967, ông về hà nội làm cán bộ khoa học của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương. Hai năm tiếp theo, ông vào chiến trường khu 5 rồi lại đổi sang công tác tại báo Cờ Giải phóng khu V và từ đấy thì về làm phóng viên chiến trường cho Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ. Cũng tại đây, cuộc đời cùng tác phẩm của ông gắn bó mật thiết với Quảng Nam - Đà Nẵng.

Năm 1975, sau ngày thống nhất dựng nước, ông tham dự Trại sáng tác Văn nghệ Quân khu 5 (thường nói là "Trại viết khu 5 ") . Trong ba năm từ 1980 đến 1983, ông tham gia viết tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Sau năm 1983, ông đổi công tác sang Hội Văn nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng làm Phó Chủ tịch Hội Văn hoá Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và TBT tạp chí Đất Quảng. Năm 1997, ông làm Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn hoá Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng và Chủ tịch danh dự của Hội Nhà văn Đà Nẵng kiêm TBT tạp chí Non Nước cho đến lúc nghỉ hưu trí. Ông cũng đồng thời là đại diện Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn) khu vực miền Trung và Thành viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam (nhiệm kỳ VI) .

Sự nghiệp văn thơ

Ngay cả lúc đang là học sinh tại trường học sinh miền Nam, Thanh Quế đã tập tành sáng tác thơ. Bài thơ đầu tiên "Em nhớ quê em" của ông năm 15 tuổi đã được Nhà xuất bản Phổ thông in thành tập Trở về quê mẹ. Vào năm 1962, hai tập thơ Biển trời xanh và Người mẹ yêu thương của ông cũng được in lên báo Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam.Trong quãng thời ông theo học trường Đại học tổng hợp Hà Nội, những tác phẩm thơ của ông đã được đăng tải trên các báo nổi tiếng như Văn nghệ, Thanh niên và Tiền phong. Năm 1965, bài thơ Bà nội miền Nam của Thanh Quế được đưa vô tập thơ Sức sống mới của Nhà xuất bản Văn học.

Cuối năm 1970, ông chuyển hoạt động sang Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Trong quãng thời gian này, ông đã từng hoạt động với cán bộ, công nhân và người dân quảng ngãi, cho ra mắt nhiều tác phẩm tuyên truyền như "Mẹ tôi đang trồng lúa", "Phía trước có Mỹ bò", "Chúng ta cày". .. Đến năm 1971, trước nhu cầu của đời sống xã hội, ông chuyển hướng qua viết văn. Thơ bút ký đầu tay của ông là "Những em nhỏ nuôi bò sữa Nhạn Phú". Từ sau Hội nghị Paris 1973 khi ông trở lại ông đã sáng tác một chùm truyện về Mùa mưa bão, Những con người du kích Gò Nổi cùng một số tập văn xuôi như Trông chồng và Trước mặt em sông Vu Gia.

Sau khi hoà bình lập lại, ông cho ra mắt tuyển tập truyện ngắn Tên em, Khuôn mặt em (Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng, in chung) . Giữa năm 1977, ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi gia nhập hội, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm, trong đó có tiểu thuyết Cát cháy đã nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Thời kỳ lớn tuổi, số lượng tác phẩm Thanh Quế viết ra ngày càng nhiều, chủ yếu là các tác phẩm về những đồng đội cũ đã hi sinh trong kháng chiến. Các hồi ký của ông không chỉ có giá trị về văn chương mà còn có giá trị về khảo cứu khi viết nhiều về đề tài người lính trong một thời kỳ lịch sử.



Tác phẩm

Văn thơ

Văn xuôi, truyện ngắn

Chuyện từ một truyền thuyết (1978).

Thung lũng Đắk Hoa (2 tác giả, 1980).

Cát cháy (1983).

Trong lòng hồ (1984).

Những đám mây kể chuyện (1987).

Mai (1988).

Dì Út và người khách ấy (1988).

Người khách lạ (1990).

Cuộc phiêu lưu của con chó nhỏ (truyện thiếu nhi, 1993).

Những câu chuyện rút từ túi áo (truyện thiếu nhi, 1994).

Kẻ đào ngũ (2011).

Hai người đàn ông và một người đàn bà (2016).

Rừng trụi (1987).

Bếp lửa làng Tà Băng, (1998).

Hai người bạn (1998).

Bà mẹ vui tính (2002).

Sao anh lại cảm ơn tôi (2002).

Dì Út (2003).

Thị trấn em kết nghĩa (2005).

Ở giữa thời gian (2007).

Thơ

Tên em, khuôn mặt em (2 tác giả, 1975).

Tình yêu nhận từ đất (3 tác giả, 1977).

Trong mỗi ngày đời tôi (1986).

Giãi bày (1988).

Khi ta giở sách ra (thơ thiếu nhi, 1988).

Hái tiếng chim (thơ thiếu nhi, 1991).

Những tháng năm vay mượn (1993).

Mé biển đời tôi (2000).

Người lính đi đầu (trường ca, 2003).

Những tháng năm (2006).

Một gạch và chuyển động, 2006.

Nơi phòng đợi, 2016.

Hồi ký, chân dung văn nghệ

11 truyện ngắn, 1994. Về Nam (hồi ký, chân dung văn nghệ, 1996).

Những gương mặt thân yêu (chân dung văn học, 1996).

Những kỷ niệm, những gương mặt (2001).

Từ những trang đời (2001).

Gương mặt và cảm nhận (chân dung văn học, 2013).

Sách

Thanh Quế; Hoàng Minh Nhân; Nguyễn Bảo (1978). Miền đất ấy: tập truyện ngắn. Hà Nội: Nhà xuất bản Tác phẩm mới. OCLC 5946179.

Thanh Quế (1994). Truyện ngắn Thanh Quế. Nhà xuất bản Đà Nẵng. OCLC 34564661.

Thanh Quế (2005). Rừng trụi: tập truyện vừa. Nhà xuất bản Thanh niên. OCLC 191829575.

Thanh Quế (2014). Một Gạch Và Chuyển Động; Cát Cháy: Thơ; Tiểu Thuyết. Nhà xuất bản Hội Nhà văn. OCLC 951357481.

Thanh Quế (2016). Cát cháy. Nhà xuất bản Kim Đồng. ISBN 978-604-2-06949-6. OCLC 1203973812.

Giải thưởng và danh hiệu

Các tác phẩm đạt giải:

Cát cháy: Giải Nhì (không có giải Nhất) - Giải thưởng của Hội Nhà văn và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 1972.

Những tháng năm vay mượn: Giải B của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1994.

Rừng trụi: Giải A - Giải thưởng văn học 10 năm của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng năm 1985 và 1995.

Gia đình

Thanh Quế có vợ là em gái nhà văn, nhà thơ Hoàng Minh Nhân. Hai người có một con trai và một con gái. Con trai bà là họa sĩ Phan Tuy An (nhũ danh Phan Hoàng, SN 1), người từng được mệnh danh là “thần đồng thơ” Đà Nẵng khi mới 9 tuổi đã có hàng loạt bài thơ được đăng trên các báo, tạp chí khu vực trung tâm thành phố. cũ. . Khi còn là học sinh, Phan Tuy An đã xuất bản hai tập thơ gồm bài: Con mèo háu ăn (NXB Đà Nẵng, 1998) và Đất và trăng (NXB Phụ Nữ, 1998, 2003). Năm 2003, Phan Tuy An được Nhà xuất bản Kim Đồng trao giải thưởng cho tập thơ "Búp và hoa" trong khuôn khổ Cuộc vận động sáng tác văn học thiếu nhi 2001-2003.Tuy nhiên, sau đó anh quyết định theo đuổi hội họa và tốt nghiệp trường Đại học Nghệ thuật Huế. Hiện là họa sĩ có nhiều tác phẩm ấn tượng. Ngoài ra, Phan Tuy An còn giúp vẽ bìa cho nhiều tác phẩm đã xuất bản của cha mình.

VĂN CAO


Tiểu sử

· Văn Cao (tên khai sinh là Nguyễn Văn Cao, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) . Là một nhà người yêu nước, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ và là một cựu chiến binh Việt Nam. Ông là đồng tác giả của bản Tiến quân ca, quốc ca đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) . Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ có uy tín nhất trên toàn cầu. có tác động nhiều nhất đối với Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới truyền thông cùng khán giả người yêu nhạc bình chọn là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất, của đời sống âm nhạc Việt Nam đầu thế kỉ 20, ngang hàng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.

· Văn Cao thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong và thành lập nhóm Đồng Vọng, nơi ông viết nhiều ca khúc trữ tình, lãng mạn như Bến Xuân, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi. Anh đã nhanh, trở thành một trong những tên tuổi nổi bật và tiêu biểu nhất của phong trào Lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam và để lại ảnh hưởng sâu sắc đến tân nhạc Việt Nam nói riêng. Sau khi tham gia Việt Minh, Văn Cao chủ yếu viết về những ca khúc có âm hưởng cách mạng như Tiến quân ca, Sông Lô Trường Ca, Tiến về Hà Nội v.v.

· Được nhiều người coi là một tấm gương sáng trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Tài năng nghệ thuật đa dạng cùng với sự tổng hòa cao của văn (thơ) - nhạc - họa, Văn Cao sớm có nhiều thành tựu. Thành tích ngoài mong đợi ở tuổi mười tám đôi mươi. Không được đào tạo chính quy và bài bản về âm nhạc cũng như hội họa, có thể nói những thành tựu của Văn Cao trong cả và hai lĩnh vực này phần lớn là do thiên tài nghệ thuật của ông (theo lời của nhà âm nhạc học Nguyễn Thụy Kha: “Văn Cao là Trời cho”). Nhiều người coi đây là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử phát triển của văn hóa Việt Nam, khi “dòng chảy” sáng tạo cá nhân của một người có sự “hợp lưu” ở cả ba nhánh âm nhạc, thơ ca ở hầu hết các thể loại.Về sự nghiệp nghệ thuật của Văn Cao , người ta thường mô tả ông là một nghệ sĩ đa năng, thích “chu du” ở nhiều “lĩnh vực” nghệ thuật mặc dù từ lâu ông không bén duyên với bất kỳ lĩnh vực nào. , Văn Cao Lựu cho từng “vùng”. Anh ấy cũng đã tạo dựng được tên tuổi của mình với nhiều phát kiến ​​sáng tạo và mở đường cho những người mới. Như nhạc sĩ đương đại Phạm Duy đã lần làm chứng, sự nghiệp sáng tác của ông Hệ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những bộc lộ (nghề nghiệp) và sự thúc đẩy (tinh thần) của Văn Cao với tư cách là nhạc sĩ, tri kỷ và bạn văn nghệ của Phạm Duy.

· Năm 1996, một năm sau ngày mất, Văn Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh tại lễ trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng 1, Huân chương Độc lập hạng 3, Huân chương Độc lập hạng 1 và Huân chương Hồ Chí Minh. Tên ông cũng được đặt cho nhiều con đường đẹp ở Hà Nội và TP.HCM.Ciudad Ho Chi Minh, Hai Phong, Hue, Da Nang, Nam Dinh, ...

Cuộc đời

· Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng có các nhạc sĩ trẻ như Đình Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý. .. Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng với Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và viết ca khúc đầu tay Mùa thu buồn năm 16 tuổi. Văn Cao đã hát với nhóm Đồng Vọng và cũng sáng tác những ca khúc có tính chất khám phá, lạc quan hơn như "Gió núi", "Về Đống Đa" và "Nắm tay em xinh" của . Cũng trong thời gian này, tại Hải Phòng, Văn Cao gặp Phạm Duy, lúc đó là giám đốc hãng Đức Huy.Phạm Duy là người đã hát "Mua Thu" và giúp phổ biến bài hát này. Năm 1940, Văn Cao xuôi Nam. Tại Huế, Văn Cao đã viết Đêm lạnh trên sông Huế, đây có thể coi là tập thơ đầu tay của ông.

Hoạt động cách mạng

Tham gia Việt Minh

· Cuối năm 1944, Văn gặp Cao Vũ Quý, một chiến sĩ Cách mạng cũ ông đã tiếp xúc trước đây. Vũ Quý đã vận động anh tham gia Việt Minh với công việc ban đầu là viết quốc ca. Văn Cao đã viết bài trên suốt nhiều ngày trong ngôi biệt thự gác mái số 171 phố Mộng Cầm (nay là phố Nguyễn Thượng Hiền, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) rồi đặt tên là "Tiến quân ca". Bài "Tiến quân ca" cũng xuất hiện vào tháng 11 năm 1944 trên mục Văn hoá của báo Độc Lập. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã công nhận bài "Tiến quân ca" là quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vì hoà bình.

· Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Văn Cao làm biên tập viên kiêm người dẫn trên báo Lao Động.

· Năm 1946, Văn Cao được cử cùng Hà Đăng An vận chuyển vũ khí, tiền của vào mặt trận phía Nam. Sau cách mạng tháng tám, Văn Cao đã được kết nạp vào Hội Văn hoá cứu quốc rồi được cử làm chủ tịch chấp hành. Văn Cao hoạt động tại Liên khu III và phụ trách Phòng Cảnh sát hình sự Liên khu, . Đến năm 1947, ông được giao chỉ huy Tổ điều tra đặcviết báo Độc Lập tại Đồn Công an Liên khu 10 trên đường Biên giới phía Bắc. Tại lào cai, ông được trao trọng trách hợp tác với vua Nùng nhằm tạo một hành lang bí mật chống trả lại sức quân Quốc dân đảng Trung Quốc ngay sau khi bị thua cuộc. Tại Lào Cai, Văn Cao cũng lấy quầy bar làm địa điểm theo dõi. Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được giới thiệu gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao tiếp tục làm báo Văn nghệ và tham gia nhóm nhạc Việt Nam. Đến giai đoạn này, ông nghỉ viết nhiều nhạc phẩm đình đám hơn như Quê em (1947) , Chiều tàn. Mùa "(1948) ," Hướng tới Hà Nội "(1949) . Chương trình đầu tiên là "Tiếng hát sông Lô" năm 1947.

GIANG NAM


Giang Nam tên thật là Nguyễn Sùng, sinh ngày 2-2-1929 (tức ngày 23 tháng Chạp năm Canh Thìn - 1928) trong một gia đình nho sĩ yêu nước bình dân tại làng Bình Trị, Tổng Hiệp. , tổng Tân Định, huyện Bình Hòa, tỉnh Khánh Hòa (nay là thôn Bình Trị, thị trấn Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Gia đình nhà thơ hiện cư trú tại số 46 đường Yersin, TP.Nha Trang, Khánh Hòa.

Cùng bút danh Giang Nam, trước kia ông cũng sử dụng các bút danh nữa gồm có Châu Giang, Hà Trung và Lê Minh khi đăng trên một số báo công khai dưới chính quyền Sài Gòn từ khoảng năm 1955 đến năm 1959.

Trước Cách mạng (1945) , dưới chế độ Pháp cũ, sau khi tốt nghiệp hết cấp Tiểu học ở huyện ninh hoà, ông theo học vào trường Quốc học Quy Nhơn và đã đậu văn bằng Tiến sĩ (1945) . Cùng với hai người anh trai là Nguyễn Lưu (Ty Thông tin tỉnh Khánh Hoà, đã mất vào tháng 9 năm 1955) và Nguyễn Quang (sau này là GS.TS. Ngôn ngữ học, Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học Xã hội, trực thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, ngày nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) đã thi đậu trước đó, thì họ là ba trong tổng số không hiếm người duy nhất tại huyện Ninh Hoà đã đạt học vị Tiến sĩ, đều là ba anh em ruột trong một nhà.

Cách mạng tháng Tám (1945) thành công và cuộc kháng chiến đánh Pháp kết thúc thì Khánh Hoà là một trong các tỉnh đầu tiên tại đất nước việt nam đã kiên cường anh dũng đấu tranh để chặn đứng bước tiến của giặc ngoại xâm ngay những ngày đầu với 101 ngày đêm năm 1945 bảo vệ ga Nha Trang. Giang Nam và với hai người anh trai của mình đã đi kháng chiến từ trước cách mạng tháng tám, khi ông mới 16 tuổi. Ban đầu ông công tác tại Uỷ ban Hành chính kháng chiến xã Hoà Dũng với chức vụ cán bộ là phó Trưởng ban Thông tin và sau đó làm cán bộ phòng Văn hoá Thông tin huyện Ninh Hoà.

Do tài làm thơ đăng báo nên ông được thăng vượt cấp, Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Tỉnh Khánh Hoà điều ông sang công tác tại Ty Văn hoá Thông tin đến tháng 5 năm 1948, với vai trò soạn bài và biên tập viên chính trên báo Thắng, báo Trait d ’ Union (Gạch nối) nhằm phổ biến trong nhân dân và đưa bản tin tới nhiều cơ quan, sở ngành trong tỉnh. Tại ty này, mấy tháng sau ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần cuối cuộc kháng chiến ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Trưởng ty Văn hoá Thông tin tỉnh Khánh Hoà.

Tác phẩm đã xuất bản:

- Thơ và trường ca: Thơ Giang Nam, Ty Thông tin Khánh Hòa xuất bản (in litô), 1949; Tháng Tám ngày mai (thơ), Nxb Văn học, HN, 1962; Quê hương – Tập thơ từ miền Nam gởi ra, Nxb Văn học, HN, 1965 (tập thơ này đã được Nxb Giải phóng in 1962); Người anh hùng Đồng Tháp (thơ, trường ca), Nxb Giải phóng, 1969; Vầng sáng phía chân trời (thơ), Nxb Văn học Giải phóng, SG, 1975; Hạnh phúc từ nay (thơ), Nxb Tác phẩm mới, HN, 1978;Thành phố chưa dừng chân (thơ), Nxb Tác phẩm mới, HN, 1985; Ánh chớp đêm giao thừa (trường ca), Nxb Quân đội Nhân dân, HN, 1998; Mầu nhiệm (thơ), trong tập “Nẻo về” in chung với 2 tác giả khác, Nxb Văn học, HN, 1999; Sông Dinh mùa trăng khuyết (trường ca), Nxb Quân đội Nhân dân, HN, 2002; Thơ với tuổi thơ (tuyển thơ thiếu nhi), Nxb Kim Đồng, HN, 2001; Lắng nghe thời gian (thơ), Nxb Hội Nhà văn, HN, 2008; Người đi mở đất (trường ca, đã công bố chương đầu); Tuyển tập thơ Giang Nam, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, HN, 2013 ... và khoảng 50 bài thơ đăng báo từ 1999 đến nay nhưng chưa tuyển thành tập.

- Truyện và ký: Vở kịch cô giáo (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, HN, 1962; Người Giồng Tre (ký và truyện ngắn), Nxb Giải phóng, 1969; Trên tuyến lửa (ký), Sở Văn hoá Thông tin Long An xuất bản, 1984; Rút từ sổ tay chiến tranh (ký), Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1987; Sống và viết ở chiến trường (Hồi ký), Nxb Hội Nhà văn, HN, 2004; Tôi đã học văn theo kiểu của mình (hồi ký), in trong “Ký ức một thời học Văn”, Nxb GD, HN, 1995; cùng một số bài hồi ký về nghề Văn, về chân dung văn nghệ sĩ bạn bè đồng nghiệp.

. Các giải thưởng văn học:

- Giải 3 về truyện ngắn của Báo Thống nhất (1959), truyện Những người thợ đá.

- Giải nhì về thơ 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ (1961), bài Quê hương.

- Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu về Văn học Nghệ thuật của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam[4](1960-1965), giải chính thức về thơ (1965) cho tập thơ Quê hương.

- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt 1 (2001) cho 3 tập thơ: Quê hương, Hạnh phúc từ nay, Thành phố chưa dừng chân.

- Các giải thưởng về Văn học Nghệ thuật của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Khánh Hoà:

+ Giải thưởng 25 năm (1975-2000) về các tác phẩm và công lao đóng góp cho Văn học Nghệ thuật của tỉnh.

+Giải thưởng năm 2002 cho trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết, giải B.

+ Giải thưởng 5 năm (2001-2005) cho 2 tác phẩm Sống và viết ở chiến trường, Sông Dinh mùa trăng khuyết, giải B.

- Tặng thưởng của Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2002 cho tác giả cao tuổi: trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết.

Với những cống hiến trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và thời đổi mới, nhà thơ Giang Nam đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương cao quý:

- Huân chương Quyết thắng chống Pháp hạng Nhất (1962).

- Huân chương Quyết thắng chống Pháp hạng Nhất (1975).

- Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất (1973).

- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất (1985).

- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba (1997).

- Huân chương Độc lập hạng Ba (1997).

- Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật (1997).

- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng (2008).

- Và nhiều Huy chương khác.

Nguyễn Thọ

(Sưu tầm và biên tập từ nguồn: Tuyển tập thơ Giang Nam, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, HN, 2013 và Địa chí Khánh Hòa - phần báo chí bổ sung năm 2014).

Xã Hoà Dũng hồi chín năm kháng chiến gồm 3 xã hiện nay là Ninh Quang, Ninh Bình và Ninh Hưng, đều thuộc huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà (từ năm 2011 là thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà)

Lúc này, nhà thơ Giang Nam, nhà văn Nguyễn Khải cùng là Thường trực Đảng Đoàn, nhà văn Nguyên Ngọc là Bí thư Đảng Đoàn của Hội.

Tập thơ này khoảng 30 bài, hiện chưa tìm lại được.

Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) do Trần Bạch Đằng - Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trân dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, đặc trách công tác thông tin, văn hóa, giáo dục làm Chủ tịch Hội đồng. Hội đồng đã chọn 54 tác phẩm thuộc các thể loại văn học nghệ thuật để trao ba loại giải: 02 Giải đặc biệt, 35 Giải chính thức (không phân hạng), 17 Giải khuyến khích.

MỘNG TUYẾT


Tiểu sử

· Mộng Tuyết sinh thần ngày 9-1-1914 ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên (nay là huyện Mỹ Đức và TP Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) . Và tham gia viết Trí Đức văn ngay năm 12 tuổi. Hài cốt nhà thơ Đông Hồ cùng một số tác phẩm thời kỳ đầu về được ông sưu tập với tiêu đề Này in trên Nam Phong tạp chí năm 1930 và nổi danh từ đấy.

· Năm 1943, Hằng Phương in bài thơ Hương Xuân cùng với Anh Thơ và Vân Đài. Đây là tập thơ tình đầu tay của Việt Nam. Vào cuối năm 1950, bà theo chồng là nhà thơ Đông Hồ vào Sài Gòn thành lập tiệm sách của Nhà xuất bản Bốn Phương và Yểm Yêm Thu Trang.

· Tháng 3/1969 chồng qua đời, bà trở về vườn sinh sống một mình ở quận Tân Bình. Đến năm 1995, ông nghỉ hưu trí về sinh sống hết cuộc đời trong Khu tưởng niệm nhà thơ Đông Hồ ở TP Hà Tiên (ngày nay là TP Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang) . Mộng Tuyết qua đời vào 1 tháng 7 năm 2007 ở Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.

· Trong ký ức của nữ sĩ, buổi tiễn đưa tại ga Hàng Cỏ vào 5 giờ chiều ngày 2/9/1939 vẫn còn nguyện vẹn. Nguyễn Tuân và Lưu Trọng Lư, những danh sĩ Bắc Hà ra tiễn bạn phương Nam. Nữ sĩ đã ghi lại: “Trên ga Hàng Cỏ đông nghẹt người. Người đi đã đông mà người tiễn còn đông hơn. Có hai mẫu người đứng gần nhau mà rất tương phản: Một người dễ dãi, giản dị, một người thì thì nghiêm chỉnh. Người trên là tác giả “Con nai vàng ngơ ngác…” người dưới là một văn nhân thèm đi. Nhà văn “Vang bóng một thời” này đang gợi dậy lòng say mê phong vị sông hồ của tôi từ tấm bé…”.

· Sau năm 1945, bà chuyên viết ký sự lịch sử, tùy bút và khảo cứu cho tạp chí Bách khoa, Văn học ở Sài Gòn. Năm 1960, xuất bản ký Đường về Hà Tiên, truyện lịch sử Nàng Ái Cơ trong chậu úp năm 1961, Truyện cổ Đông Tây 1969. Ngoài ra bà còn viết khảo luận. Những năm 1995-1996, bà cho tái bản Gầy hoa cúc, Hà Tiên xưa và nay, Hà Tiên thập cảnh và mới đây, năm 1999 bà vừa cho ra đời bộ ba hồi ký Núi Mộng Gương Hồ trên 800 trang. Mặc dầu viết nhiều thể loại, chủ yếu Mộng Tuyết là một nhà thơ, theo Hoài Thanh trong thi nhân Việt Nam, “Thơ Mộng Tuyết có một vẻ yêu kiều riêng với nhiều cung bậc, lúc bàng bạc sương khói như trong Dương Liễu Tân Thanh, lúc hồn nhiên nhí nhảnh như Làm cô gái Huế, Em xấu hổ…”.

· Thế nhưng năm 1945, giặc Nhật gây nạn đói, hai triệu người chết ở miền Bắc Tổ quốc, bà đã dõng dạc lên án trong Mười khúc đoạn trường với lời tố cáo “đốt thóc thay vì đốt củi khô”. Và nữ sĩ đã đứng lên “dưới cờ” khởi nghĩa: “Kết chặt hàng đi dưới bóng cờ. Trời Nam dành lại nước non xưa…” có đề tặng Ân Ngũ Tuyên (tức bút hiệu Nguyễn Tuân).

Tác phẩm

· Đường vào Hà Tiên (tùy bút, 1960)

· Nàng Ái Cơ trong chậu úp (tiểu thuyết lịch sử, 1961)

· Truyện cổ Đông Tây (1969)

· Dưới mái trăng non (thơ, 1969)

· Ngoài ra, bà còn dịch thơ và viết khảo cứu văn học.

Nhận xét

· Nhà văn Mộng Tuyết (Hà Tiên, 2003). Mặc dù viết ở nhiều thể loại nhưng Mộng Tuyết được biết đến nhiều nhất với tư cách là một nhà thơ. Thơ ông, như Hoài Thanh, Hoài Chân từng nhận xét: Thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh, hay xúc động, hay khát khao hay sóng gió, khi thương mình, khi đùa, khi cám ơn người thương. Người đọc bài thơ bỗng thấy lòng rung động, như đang đọc một bức thư tình gửi cho một người bạn. Người cảm thấy mình đã xâm phạm vào sự riêng tư của một tâm hồn, trong tay người ấy như có một tình yêu.

· Về văn thơ tiền chiến, Nguyễn Vỹ đánh giá: Đặc biệt về văn xuôi, Mộng Tuyết viết rất ngọt, bố cục chặt chẽ, mang nặng âm hưởng truyện Tàu...Thơ Mộng Tuyết cũng khác thơ Đông Hồ, thơ tứ tuyệt nhiều hơn, tinh tế hơn.

· Từ Điển Tác Giả Văn Hóa Việt Nam Ca ngợi: Thơ anh chuẩn mực, trong sáng, hồn nhiên, ngọt ngào như tiếng nói nhỏ nhẹ của những cô hàng xóm lễ phép..: Salida desde Ba Huyen Thanh Quan, Doan Thi Diem, Tuong Pho... hacia Mong Tuyet... Ai cũng mang đến cho đời những vần thơ nhỏ nhưng hay...

· Ngoài ra, Mộng Tuyết còn có những bài thơ giàu cảm xúc thể hiện những sự kiện bi tráng, hào hùng của dân tộc Việt Nam như: “Mười Đoạn Dài”, “Dưới Cờ” (1945), “Nhật Báo Thành Phố”. Thành phố” (1947).

· Trích một đoạn:

Đây một tờ thư của thị thành

Thả về thăm hỏi chiến khu xanh.

Hỡi anh chiến sĩ mùa thu trước,

Hơn một mùa thu bận chiến tranh.

Lẫm liệt rừng thu gió tải về

Bao tờ lá đỏ chiến công ghi.

Bao tờ lá đỏ đề lời máu,

Thề quyết thành công một chuyến đi…

(Chiếc lá thị thành)

· Mộng Tuyết và Đông Hồ là hai nhà thơ mới tiêu biểu của miền Nam Việt Nam.

NGUYỄN ĐỨC MẬU


Tiểu sử

· • Ông mất ngày 14 tháng 01 năm 1948 ở xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông sinh năm 1966, phục vụ tại đại đội của Sư đoàn 312 trên mặt trận Lào. Sau đó, ông trở thành biên tập viên rồi theo học Trường viết văn Nguyễn Du từ khoá I, từng làm trưởng phòng thơ tạp chí Văn nghệ quân đội và phó chủ tịch Hội đồng thơ - Hội nhà văn Việt Nam. Đối với những tác phẩm của vợ, ông cũng sử dụng các tên Nguyễn Đức Mậu, Hướng Hải Hưng và Hà Nam Ninh.

· Hiện ông nghỉ hưu với quân hàm đại tá và sống cùng vợ con ở Hà Nội.

Các giải thưởng

· Giải thưởng văn học Asean năm 2001

· 03 giải hội nhà văn (1994, 1996, 1999)

13

· Giải C cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ Quân đội năm 1981

· Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1972-1973

Tác phẩm chính

Thơ và Trường ca

- Thơ người ra trận (in chung cùng Vương Trọng, 1971)

- Cây xanh đất lửa (1973)

- Áo trận (1973)

- Mưa trong rừng cháy (1976)

- Trường ca sư đoàn (Trường ca, 1977 - 1980)

- Trường ca Côn Đảo (Trường ca, 1978 - 1991)

- Người đi tìm chân trời (Chuyện thơ, 1982)

- Khi bé Hoa ra đời (In chung cùng Hữu Thỉnh, 1984)

- Hoa đỏ nguồn sông (1987)

- Từ hạ vào thu (1992)

- Bão và sau bão (1994)

- Cánh rừng nhiều đom đóm bay (1998)

- Bầy chim màu lá vàng (2004)

- Thơ lục bát (2007)

- Mở bàn tay gặp núi (trường ca, 2008)

- Từ trong lòng cuộc chiến (tuyển tập, 2010) 99 bài thơ

Truyện ngắn, phê bình & tiểu thuyết

- Con đường rừng không quên (Truyện ngắn, 1984)

- Ở phía rừng Lào (Truyện vừa, 1984)

- Tướng và lính (Tiểu thuyết, 1990)

- Chí Phèo mất tích (Tiểu thuyết, 1993)

- Con đường nhiều tơ nhện giăng (Tập truyện ngắn, 2001)

- Niềm say mê ban đầu (Tiểu luận phê bình, 2010)

Nguyễn Đức Mậu và những vần thơ tri ân đồng đội

Trong căn gác 2 của khu nhà tập thể ở “phố nhà binh” Lý Nam Đế (Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã kể cho tôi nghe những câu chuyện về đời lính gian khổ, khó khăn nhưng cũng rất đỗi vinh quang, tự hào mà ông cùng đồng đội đã trải qua cách đây nửa thế kỷ. Tất nhiên, trong cuộc trò chuyện giữa chúng tôi - một người từng đi qua cuộc chiến và một người sinh ra, lớn lên trong hòa bình - còn là những sẻ chia về sự hy sinh của những người lính "mùa xuân ấy ra đi từ đó không về".



Trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm kéo dài trong lịch sử nên đề tài chiến tranh, thương binh - liệt sĩ luôn chiếm một phần không nhỏ trong đời sống văn học nghệ thuật nước nhà. Những trang viết về sự hy sinh của người lính, của những người mẹ, người vợ bao giờ cũng đem đến cho người đọc niềm xúc động thiêng liêng và lòng biết ơn sâu sắc. Trong đó, Màu hoa đỏ của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu được đánh giá là bài thơ đã chạm được vào trái tim người nghe, khiến bất cứ ai cũng không khỏi bồi hồi, xao xuyến.



Bốn câu thơ đầu là những dòng tự sự với những điệp ngữ “có người lính” và điệp từ “ra đi” đã khắc sâu ấn tượng cho người đọc. Những câu thơ tiếp theo rộng mở về thời gian, không gian và đối tượng phản ánh: "tên anh", "đá núi", "mây ngàn", "cây cỏ", "sương núi", "núi cao", "tình mẹ"... Cái hay của tứ thơ là sự chuyển hóa, hòa quyện của mây ngàn hóa bóng mẹ và mẹ hóa thành sông núi trong câu "Mây ngàn hóa bóng cây che" và "Núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con". Còn người con - người lính mà linh hồn đã hóa thành màu hoa đỏ rực cháy trong thời gian, không gian linh thiêng và bất tử.



Bài thơ đậm chất bi tráng, có sức khái quát cao và sự lay động rộng rãi từ nguyên mẫu là những bông hoa chuối rừng đến màu hoa đỏ của hy sinh, chiến thắng và bất tử; từ một bóng mây ngàn, một dáng núi đến giang sơn Tổ quốc; từ một người chiến sĩ, một người mẹ đến hàng triệu người con ưu tú đất Việt.



Bài thơ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc nhưng để phổ biến rộng rãi như hiện nay có lẽ là nhờ vào “đôi cánh âm nhạc” mà người nhạc sĩ mặc áo lính Thuận Yến đã khéo léo chắp vào khuông nhạc của mình. Nhắc đến ca khúc này, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu kể, hồi ấy nhà nhạc sĩ Thuận Yến cũng ở gần trụ sở Tạp chí Văn nghệ quân đội nên thỉnh thoảng hai người qua lại “ôn cố tri tân”. “Hôm đó, hai anh em ngồi ôn lại những kỷ niệm chiến trường, nhớ về những anh em kẻ còn người đã khuất và tiếc rằng vẫn chưa tìm thấy hài cốt những đồng đội chính tay mình chôn cất. Nhạc sĩ Thuận Yến đã chủ động bàn bạc và đề nghị tôi tìm tứ thơ, còn anh sẽ đảm nhiệm phần phổ nhạc như để trả nợ về tinh thần” - nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nhớ lại.



Thêm một điều đặc biệt là khi bài thơ này ra đời (năm 1990), ban đầu nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đặt tên là Thời hoa đỏ, nhưng khi phổ nhạc (năm 1991), nhạc sĩ Thuận Yến đã bàn với ông đổi thành Màu hoa đỏ. Bởi vào những năm tháng đó, suốt dọc đường hành quân chỉ gặp màu rực đỏ của hoa chuối rừng, nó gợi lên không khí hào hùng, chiến thắng, tác động không ít đến tinh thần chiến sĩ. Hơn nữa, trước đó đã có bài hát Thời hoa đỏ cũng rất nổi tiếng của nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng, phổ nhạc bài thơ cùng tên của nhà thơ Thanh Tùng.



Nói về bài thơ và bài hát Màu hoa đỏ, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu rất tâm đắc với phần thể hiện của NSƯT Thanh Lam. “Là “con gái rượu” của nhạc sĩ Thuận Yến, vì thế không ít lần Thanh Lam được nghe cha mình hát và cắt nghĩa tỉ mỉ, chi tiết về nội dung, hàm ý muốn chuyển tải. Với lợi thế ấy cùng tài năng của mình, Thanh Lam đã hát Màu hoa đỏ bằng một chất giọng căng đầy năng lượng khiến người nghe sởn gai ốc”, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu chia sẻ.

VŨ CAO


Sinh thời, nhà thơ Vũ Cao đã viết hết sức giản dị và chân thành những quan điểm của mình về văn chương: "những gì tôi viết ra là rút từ cuộc sống của bộ đội, của nhân dân, từ cuộc sống để trở lại cuộc sống”. Ông sống một cuộc đời khiêm tốn, cống hiến cho thơ ca, con người và đất nước. Trong đó, bài thơ Đồi núi của Người đã trở thành một biểu tượng cao đẹp, hào hùng, bất diệt của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

Những vần thơ nhẹ nhàng, sâu lắng

Nhà thơ Vũ Cao sinh ngày 18/2/1922 tại Nam Định. Ông nhập ngũ năm 1946 và gắn cuộc đời quân ngũ với nghề báo quân đội, từ Báo Quân đội nhân dân đến Tạp chí Văn nghệ Quân đội, từ công việc phóng viên đến chức vụ Tổng biên tập.

Khi xuất ngũ, ông làm Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng thơ (Hội Nhà văn Việt Nam). Nhưng với Vũ Cao, các chức trách phải gánh hình như không làm ông bận tâm. Điều ông muốn là được sống thật lòng mình với đời, với người.

Thơ đến với anh khi cảm xúc được chắt lọc và thăng hoa, anh muốn mở lòng đón nhận người và cảnh vào những vần thơ dịu dàng, giàu nhạc tính và cảm xúc. Vũ Cao viết không nhiều, nhưng hầu hết tác phẩm của ông viết về đề tài chiến tranh - đề tài gần gũi, gắn bó với ông gần hết cuộc đời, trong tư cách một người lính.

Thơ Vũ Cao thì giản dị, thâm trầm, nhẹ nhàng và rất quê, những nét bình thường trong hiện thực kháng chiến thời chống thực dân Pháp được Vũ Cao ghi lại bằng những câu thơ có dư vị: “Nghe tin bộ đội chờ đò/ Bờ sông, con máng tiếng hò dân công/ Lại nghe sông gió bập bùng/ Vẫn nghe tiếng súng bên vùng Vĩnh Yên/ Quán khuya thức giấc lên đèn/ Chờ tin, cánh liếp ngoài hiên hé chờ” (Ánh đuốc).

Một triết lý, với cách nghĩ của Vũ Cao, không có gì giản dị hơn, thiết thực hơn: “Ta đã từng đói no/ Nên quý từng hạt gạo/ Ta chịu rét nhiều lần/ Nên thương từng manh áo” (Ghi trên đường đi). Dưới con mắt Vũ Cao, Người gác cầu (kháng chiến chống Mỹ) có một cảm nhận thật tinh tế, đằm thắm: “Những chiếc xe từ bắc đi về xuôi/ Tiếng máy gọi nhau như thể tiếng người/ Khẩu pháo rẽ nghiêng, nòng còn ngoảnh lại/ Như cánh tay chào tạm biệt sông trôi…”.

“Núi đôi” - bản tình ca đọng mãi

Nhắc đến Vũ Cao là nhắc tới “Núi Đôi” (sáng tác năm 1955) - một trong những bài thơ hay nhất viết về kháng chiến. Có khi người ta say sưa với “Núi Đôi” mà quên đi tác giả. Đó cũng là hạnh phúc của nhà thơ.

Bài thơ kể về một câu chuyện tình yêu giữa anh bộ đội ra chiến trường và cô du kích vùng địch hậu trong kháng chiến chống thực dân Pháp ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Nơi đây có hai ngọn núi nằm cạnh nhau như núi vợ núi chồng, như chứng tích về một tình yêu đã đi vào huyền thoại thơ ca và lịch sử. Hơn nửa thế kỷ nay, bài thơ được in đi in lại hàng trăm lần; đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường; được dịch ra nhiều thứ tiếng và chuyển thể thành phim.

Xuyên suốt bài thơ, người con trai mà ông gọi là “anh” gọi ông là “anh” khi ông nói với một cô gái cùng quê:

Bảy năm về trước em mười bảy

Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng

Xuân Dục – Đoài Đông hai cánh lúa

Một ngày sau anh sẽ đến bên em

Tình yêu của anh không biết bắt đầu từ bao giờ nhưng nó đã bám lấy những cánh đồng, những ngọn đồi của thôn Xuân Dục - Đoài Đông.

Có những lúc con gái hay đùa nghĩ về chuyện trăm năm hạnh phúc:

Lối ta đi giữa hai sườn núi

Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi

Em vẫn đùa anh sao khéo thế

Núi Chồng, núi Vợ đứng song đôi

Tình yêu của họ gắn với tình yêu đất nước, quê hương. Cuối một mùa chiêm quân giặc đến, người con trai ra trận. Ngày đình chiến, ông lại về thăm quê và được tin con gái mình đã ngã xuống trên mảnh đất này. Vũ Cao đã viết nên một bài thơ tình cảm động và sâu lắng, có mất mát đau thương nhưng không bi lụy của đôi lứa biết yêu nhau và yêu nước, biết quên mình vì nhau và vì nước.

Ai viết tên em thành liệt sĩ

Bên những hàng bia trắng giữa đồng

Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng

Anh đi bộ đội, sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm

Có lẽ chưa nhà thơ kháng chiến nào viết được bài thơ về liệt sĩ, về đồng đội, về người yêu và về người đồng chí chân tình đến thế, thiết tha đến thế. Cũng chưa ai gọi: em, đồng chí mà người nghe cảm thấy ngọt lành như Vũ Cao đã gọi trong bài thơ mình. Cái tình thật, không tô vẽ là những gì nhà thơ Vũ Cao mang ra đối đãi suốt cuộc đời làm văn nghệ của mình như ông từng tâm sự: “Người viết còn phải có trách nhiệm với câu chữ của mình và cần nhất là sự giản dị, trong sáng. Người viết cần có phong cách riêng, tính cách riêng, nhưng theo tôi không được tách ra khỏi cuộc sống nhân dân”.



Vũ Cao không chỉ là một nhà thơ nổi tiếng với bài thơ tình yêu trong chiến tranh bất hủ, ông còn là cây bút văn xuôi chân chất, nhẹ nhàng và không ít hóm hỉnh đối với cả người đọc lớn tuổi và trẻ em, nổi bật là những tác phẩm: “Truyện một người bị bắt”, “Những người cùng làng”, “Em bé bên bờ sông Lai Vu”, “Anh em anh chàng Lược”, “Từ một trận địa”, "Một đoạn thơ sông Đà" ... Trong đó, “Một đoạn thơ sông Đà” viết năm 1965 là một truyện ngắn hay nhất của ông, đồng thời cũng là một trong không nhiều truyện ngắn viết về chiến tranh với một phong cách trữ tình, giàu chất thơ nhất. Với các tập “Đèo trúc”, “Núi Đôi”, “Từ một trận địa”… nhà thơ Vũ Cao đã được vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Ngày 3-12-2007, nhà thơ Vũ Cao đã đi vào cõi vô cùng, nhưng thơ ông vẫn ở lại trần gian, viết tiếp câu chuyện tình “Núi Đôi” gửi cho đôi lứa những ngày sau yêu thơ.

PHẠM TIẾN DUẬT

 

Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941 tại Phú Thọ. Trong một gia đình nhà giáo, vợ là nông dân. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông nhập ngũ và  phục vụ tại ngũ. 14 năm, trong đó  8 năm. với Trường Sơn, với Đoàn 559.

Ông cũng chia sẻ "Tôi có liên hệ máu thịt với Trường Sơn và có thể chính Nó đã đẻ ra đời thi sĩ Phạm Tiến Duật. Xưa, nay và mai sau này có thêm một cái gì thấm sâu vô lòng tôi cũng là do những ngày tháng trên Trường Sơn ".

Phạm Tiến Duật, người đã hoạt động với vai trò là nhà báo tiền tuyến và trải nghiệm nỗi hy sinh, mất mát, đau khổ cả vật chất và tinh thần của bao người lính trong những ngày tháng chiến tranh gian nan và ác liệt còn Phạm Tiến Duật là Phạm Tiến Duật ở giữa và sau thời kỳ kháng chiến đánh Hoa Kỳ Các trạng thái. Trong sách, ông đã trao tư liệu cùng trải nghiệm thực tế chiến đấu tại nhà trường. Để phần trên gợi lên được cái sự bay bổng, mơ mộng đầy tình cảm của một thi sĩ việt nam. Bộ hai đã đem đến với ông nhiều khoảnh khắc tuyệt vời qua các tập thơ ông sáng tác cùng khoảng thời gian đó. "Thơ anh mang hơi thở của hiện đại nhưng vẫn có sự phong trần, bụi bặm và ngang tàng của một người lính thời đánh Hoa Kỳ. Thơ ông có sức mạnh của cả một đoàn quân đánh trận "... (vợ Nguyễn Văn Thọ) .

Quãng thời gian trên Trường Sơn là khoảng cuộc đời đẹp đẽ nhất của thi sĩ Phạm Tiến Duật. Ông cũng bảo rằng việc có mặt của ông trên con đường Trường Sơn đầy khói lửa cuộc chiến đấu ác liệt của quân đội và nhân dân việt nam là một chuyến hành trình vĩ đại của số phận. Chỉ có lên trường sơn thì anh mới thấy và phát hiện ra tình yêu, sức mạnh của đời mình thông qua các nhân vật vô cùng đặc biệt như những chàng trai mở đường, cô gái tnxp, vị tướng hay bà mẹ Pa Cô, Vân Kiều. .. Này Trong chiến tranh với Hoa Kỳ, Trường Sơn là đỉnh cao của tất cả vinh quang. Những cái mà chỗ kia có thì Trường Sơn cũng có. Những cái chỗ kia không có thì Trường Sơn cũng có. Trường Sơn cho Phạm Tiến Duật một báu vật. Ngược lại, Phạm Tiến Duật chỉ đường Trường Sơn. Từng người lính Trường-Sơn hay nói đúng hơn là toàn bộ nhân dân thời đó đã cảm thấy mình qua các tác phẩm của anh.

Thơ anh là một Trường Sơn thu bé với hình ảnh người lính lái quả cảm, kiên cường: ôm nhau đùa (thơ về tiểu đội xe không gương) ; chiến sĩ công binh cầu đường: Đồng đội lặng lẽ/Nén nhang hoà vào bài ca/Trên nền cát trắng/Cây bi thép im tiếng (Trăng và ánh nến) ) ; những cô nàng thanh niên tình nguyện: "Hôm nay em phá bao bom/Đêm em mơ gặp mấy anh ở đây" nhưng rất tinh nghịch, vô cùng duyên dáng và đầy nữ tính "Khăn xanh, cái áo mặc giữa nắng ban mai/Trang giấy trải khắp trời chiều" - (Lời người thiếu nữ gửi mình) ; chàng lính canh quán: "Mười năm đời xa phố, nhớ phố/Tám năm trong núi trong hang/Cho nhau tất cả. .. /Do phía nam tất cả (tiếng hát bạn tù) . ..

Phạm Tiến Duật đã khiến những anh bộ đội đỡ cô độc và làm ấm áp tâm hồn của người lính đang ngày đêm ngồi lắng nghe lời thì thầm của trời mưa. Phạm Tiến Duật nói thay cho một dân tộc. Anh nói giúp cả chàng lính trẻ và các cô gái tình nguyện. Nói nên niềm tin, hi vọng và khát khao, nỗi buồn trên mặt trận. ..

Và độc đáo nhất là tập bài "Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây" do Phạm Tiến Duật viết vào khoảng cuối năm 1969 ở thị trấn Cô Giang ven dòng sông Son tỉnh Quảng Bình, một vần thơ khiến anh lính lúc nào cũng nghĩ thấy. trên mặt trận luôn hiện hữu bên ba lô của bạn.

Khi nhạc sĩ Hoàng Hiệp soạn lời bài thơ thì chất thơ cùng chất nhạc hoà quyện chặt chẽ với giai điệu và vút cao đôi cánh vang giữa chiến trận đã thôi thúc cả triệu con tim lên đường ra tiền tuyến để đánh địch lập công Trên rừng Trường Sơn. /Hai người đã mất/Đường ra mặt trận mùa hôm nay xa lắm/Trường Sơn Đông thương nhớ Trường Sơn Tây.

Với cấu tứ giản dị dễ hiểu mang âm điệu mộc mạc và đầy chất thơ, ca từ hay cùng tiết tấu đậm đà chất lính của bài hát đã "thổi bùng ngọn lửa" trong lòng mỗi thính giả. Bài hát không thành công ở khía cạnh kỹ thuật và cảm xúc, song dường như đã bộc lộ rõ ràng nhất bao cảm xúc to lớn của xã hội, của cả một thế hệ trẻ, của toàn đất nước khi đó.

Ở hậu phương, các chiến sĩ hát bài "Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn". Cho đến nay, "Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây" luôn là một ca khúc hay và có sức sống lâu bền trong lòng nhân dân. Đối với những người lính Trường Sơn đã anh dũng chiến đấu và hi sinh thì đây là ca khúc bất tử, là tình cảm thiêng liêng và sự tự hào mỗi khi cùng nhau nhớ đến Trường Sơn oai hùng, oanh liệt. ..

Sức hút của thơ Phạm Tiến Duật không chỉ nằm ở tính mới mẻ về lối tiếp cận thực tế mà cả cấu trúc và phong cách: Không cửa sổ đâu là xe không cửa sổ. Hư hỏng lắm/Cái chòi ta ở/Trông mây, nhìn núi, ngắm biển (thơ về chuyến xe tuần tra không cửa sổ) hay Chấn thương trước khi đến viện/Tôi vẫn chờ tiếng xe kêu/nằm sấp nhớ Trăng nằm ngửa nhớ bến/giật mình tỉnh dậy thì hụt chân đi (nhớ) . .. vừa bộc lộ trình độ kĩ thuật vững, lại phản ánh sức trẻ cùng sự năng động của các chàng trai, cô gái - những hình ảnh thường ngày vô tư bước trên nền thơ, thành những biểu trưng rực rỡ cho nét thanh xuân và sức sống hồn nhiên của tuổi trẻ thời kỳ chống Hoa Kỳ. ..

Sau hoà bình, Phạm Tiến Duật lại sáng tác thơ với nhiều chiêm nghiệm sâu của mình trước ranh giới giữa mạng người và sự chết. Vậy thơ "Tiếng súng và tiếng chuông chùa" (1997) dành cho các nữ binh ở mặt trận trở về, được sống và lao động tốt theo một quan niệm hết sức nhân đạo của người Việt Nam. Bài là họ đã có nhiều ngày tháng tươi đẹp nhất trong cuộc đời, với biết bao người bạn đồng hành thương yêu nhất của. ..

Những bài thơ xuất sắc nhất của Phạm Tiến Duật là: "Vầng trăng lửa" (1970) , "Thơ một con đường" (1971) , "Hai đầu núi" (1981) , "Nhóm lửa" (1996) , "Tiếng Bom Chuông Chùa" (Tiếng Hát 1997) , "Tuyển Tập Phạm Tiến Duật" (2007) . ..

Ngày 4 tháng 12 năm 2007, bệnh ung thư phổi đã đưa anh ra ngoài đời thực trước nỗi đau khổ tột độ của đông đảo bè bạn, đồng đội cùng nhiều độc giả yêu mến thơ anh.

ĐÔNG HỒ


Đông Hồ (10-3-1906 – 25-3-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, bí danh Trác Chỉ, Đông Hồ, Hoa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cô Nguyệt, Đại An Am, Nhị Liễu tiên sinh. Được coi là nhà giáo, nhà thơ, người say mê tiếng Việt và văn hóa dân tộc Việt, ông là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ đại” gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ ông), Lư Khê và Trúc Hà.

Thân thế và sự nghiệp

Đông Hồ sinh ra tại thành phố Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang. Thuở nhỏ tên là Kỳ Phác, từ nhỏ mồ côi cha mẹ, được người chú là Lâm Hữu Lan nuôi nấng và sinh cho một nhân vật nhỏ tên là Quốc Tí, tự là Trác Chỉ. Ở ngoại ô Đông Hồ Ấn Nguyệt là một danh lam thắng cảnh trong Hà Tiên Thập Cảnh và khi bắt đầu làm thơ ông đã lấy tên là Đông Hồ.

Lượt kê nững hoạt động chính của ông:

1926 – 1934: Trí Đức được thành lập bên bờ biển, Đông Hồ chủ trương giáo dục cho mọi người Việt Nam và khuyến khích người Việt Nam tin tưởng vào tương lai của tiếng Việt. Trong thời gian này ông có đóng góp cho tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh đứng đầu cho đến khi tờ báo ngừng xuất bản (1935). Cũng trong giai đoạn này, ông nổi tiếng với các bài viết về Linh Phương hay Trác Chi Lễ và bài ký về Đông Hồ.

1935 – Xuất bản tuần báo Sống ở Sài Gòn, nhưng chỉ sau vài chục số thì bỏ dở vì không tự túc được. Ông phải trở về Hà Tiên sinh sống và nghiên cứu văn học phương Nam. 1945: Tham gia kháng chiến. Chiến tranh. Chống Pháp một thời gian nhưng sức yếu, ông rời Hà Tiên về Sài Gòn. 1950: Ông thành lập Nhà xuất bản Bốn Phương và Nhà sách Yêm Yêm Thu Trang.

1953: Phát hành tạp chí Nhân Loại để hỗ trợ nhà xuất bản nói trên và nhà sách đến giữa năm 1964 thì ngừng hoạt động 1964: Ẩn náu trong nhà Quỳnh Lâm Thư ở ngoại ô Sài Gòn. Những năm sau đó, ông viết cả văn lẫn thơ, thường viết về văn học, lịch sử đăng trên các tạp chí do Sài Gòn xuất bản như Văn Hóa, Bách Khoa, Văn Lịch,...1965: Ông được mời về làm Giám Đốc Văn Học Miền Nam tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.

Ông mất ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức ngày 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu) khi đang đứng trên bục giảng và trình bày bài thơ “Trương Nữ Vương” của nghệ sĩ Ngân Giang cho các em học sinh.

Tác phẩm

Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, kí, khảo cứu, văn sử, về văn, ông viết từ văn xuôi miền biển đến văn xuôi hiện đại. Ông nổi tiếng khi viết cho tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh đứng đầu và được biết đến nhiều nhất với tiểu luận Linh Phương tức tập Trác Chỉ Lễ Ký và Phù Đổng Hồ.

Các tác phẩm đã in thành sách:

Thơ Đông Hồ (Văn Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1932): sáng tác trong khoảng 1922 - 1932

Lời Hoa (Trí Đức Học Xá, Hà Tiên xb, 1934): các bài Việt văn của học sinh Trí Đức Học Xá đã nhuận sắc

Linh Phượng (Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xb, 1934): tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, đăng ở Nam Phong tập XXII, số 128

Cô Gái Xuân (Vị Giang Văn Khố Nam Định xb, 1935): thơ sáng tác trong khoảng 1932 - 1935

Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí Đức Học Xá xb, 1936): soạn chung với Trúc Hà

Hà Tiên thập cảnh (Bốn Phương xb, 1960): in chung với Đường Vào Hà Tiên của Mộng Tuyết thất tiểu muội

Trinh Trắng (Bốn Phương xb, 1961): thi tuyển

Truyện Song tinh (Bốn Phương xb, 1962): sao lục, khảo cứu truyện Song Tinh Bất Dạ

Chi lan đào lý (1965): tùy bút

Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều (1965): thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du

Bội lan hành (1969)

Úc Viên thi thoại (1969)

Đăng đàn (1969)

Dòng Cổ Nguyệt (1969)

Văn học miền Nam: văn học Hà Tiên (1970): tập họp những bài giảng ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Đã hoàn thành các biên khảo:

Thăm đảo Phú Quốc (Nam Phong, t. XXI, số 124, 1927)

Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong, t. XXV, số 143, 1929)

Chuyện cầu tiên ở Phương thành (1932)

Ngoài ra, Đông Hồ là một người có bàn tay tài hoa, vốn yêu thích viết chữ đẹp và nghệ thuật thư pháp, và lại yêu tiếng Việt nên ông là người đầu tiên có ý tưởng dùng cọ lông và mực Tàu viết chữ quốc ngữ. Vì thế ông được tôn là tổ sư của bộ môn Việt thư (thư pháp chữ Việt).

Đánh giá

Nhà lưu niệm Đông Hồ, cũng là nơi cư trú cuối cùng của Mộng Tuyết ở Hà Tiên. Đông Hồ viết nhiều thể loại tản văn, thơ ca, ký sự, nghiên cứu và lịch sử văn học. Ông viết từ những năm 1920 đến 1960, chuyển từ thơ cổ sang thơ hiện đại, từ văn xuôi bản ngữ sang văn xuôi hiện đại. Cùng với vợ là nữ thi sĩ Mộng Tuyết (1914-2007), ông từng làm rạng rỡ văn đàn Phương Thành (Hà Tiên) với tác phẩm.

Trích một vài nhận xét:

Hoài Thanh và Hoài Chân:

... Tôi yêu văn học dân tộc, nhưng xem cách nói của Đông Hồ, cũng bớt.... Và với bài thơ “Cô gái mùa xuân”, ông là “người đầu tiên đưa vào thơ ca Việt Nam hương vị mênh mông của tình yêu dưới ánh trăng trong, trong tiếng sóng vỗ”.

Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng:

Từ Thơ Đông Hồ xưa đến Thiếu nữ xuân mới, người ta nhận ra rằng một nhà thơ trong chính thời đại của mình bỗng hoán cải…”

Tự điển Văn học:

Người ta còn nhớ đến ông với tư cách là tác giả của Linh Phương, một tập hồi ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, với những hình ảnh, vần điệu cổ kính nhưng diễn tả nỗi buồn thời bấy giờ... Tham khảo sưu tầm và nghiên cứu tài liệu: Hà Tiên tuyển tập truyện Tao Đàn Chiêu Anh Các của Mạc do ông biên soạn; truyện Song Tinh, tức Song Tinh Nhưng Không Đa, là truyện thơ của Nguyễn Hữu Hào tìm thấy năm ; là những “đóng góp đáng kể”.

Bài thơ nổi tiếng

Mua áo

Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi,

Em đâu còn áo mặc đi chơi.

Bán thơ nhân dịp anh ra chợ,

Đành gởi anh mua chiếc mới thôi!

Hàng bông mai biếc màu em thích,

Màu với hàng, em đã dặn rồi.

Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo:

Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?

Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!

Thước tấc anh còn lựa hỏi ai

Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,

Ngắn dài, người mới tựa bên vai!

Đông Hồ

Cô gái Xuân (trích đoạn)

… Cũng xóm làng trên, cô gái thơ,

Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ.

Gió đông mơn trớn bông hoa nở,

Lòng gái xuân kia náo nức chờ.

Tưng bừng hoa nở bóng ngày xuân,

Rực rỡ lòng cô hoa ái ân.

Như đợi, như chờ, như nhớ tưởng,

Đợi, chờ, tưởng, nhớ bóng tình quân....

HOÀNG TRUNG THÔNG


Hoàng Trung Thông (1925-1993), các bút danh: Đắc Công, Bút Châm, là một nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ cách mạng mới Việt Nam; nguyên Tổng biên tập báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam; nguyên trưởng phòng xuất bản văn học; Nguyên Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Viện trưởng Viện Văn học (1976-1985).

Cuộc đời

Hoàng Trung Thông sinh ngày 5 tháng 5 năm 1925 tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Thuở nhỏ ông học chữ Hán và là thần đồng nổi tiếng khắp vùng. Năm 12 tuổi ông theo học trường Quốc Học Vinh, một trong những trường danh giá nhất lúc bấy giờ. Ông sớm thoát ly tham gia cách mạng trong phong trào Việt Minh , trong Kháng chiến chống Pháp ông lãnh đạo Hội Văn nghệ Khu IV cùng với Hải Triều, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên.

Từ năm 1945 đến cuối đời, ngoài việc làm thơ, nghiên cứu lý luận, phê bình văn học và thư pháp, Hoàng Trung Thông còn giữ các chức vụ quan trọng như: Ủy viên văn hóa Liên khu 4, Tỉnh ủy viên, Tỉnh ủy viên. của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương; Thư ký Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam; Tổng biên tập báo Văn_nghệ Nghề mới của Hội Nhà_văn Việt_Nam ; Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương, Viện trưởng Viện Văn học (giai đoạn 1976-1985).



Hoàng Trung Thông qua đời vì bệnh phổi và gan tại Hà Nội ngày 4 tháng 1 năm 1993. Dù đảm đương nhiều trọng trách trong nghệ thuật nhưng cả đời cô nghèo khó, trong sáng. Cuối đời, đêm đêm ông thường nói chuyện một mình với tượng Lý Bạch, Lỗ Tấn, Pushkin. Năm 2022, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt 6) với các tập thơ: Đường đi , Cánh buồm, Sóng, Thơ bất tận.

Sự nghiệp

Trong số các nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20, Hoàng Trung Thông là người có học thức cao. Thơ văn của ông giúp con người sống tốt đẹp hơn, trong sáng hơn, khơi dậy tình yêu thương con người, đấu tranh cho lý tưởng nhân đạo, tiến bộ của con người. Những vần thơ của Hoàng Trung Thông đã tác động và tác động lớn đến đời sống của nhiều thế hệ. Nhà nghiên cứu - giáo sư Phan Ngọc đã từng viết về ông: "Tâm hồn bác là tiểu nhân, trong thơ bác chỉ là thi sĩ tiểu nhân" và "Chỉ có chú bé Hoàng Trung Thông là không bằng lòng". đối với chính anh ta.Đó là cái hay của Hoàng Trung Thông.”

Ông viết nhiều bài nghiên cứu, phê bình văn học, trình bày thơ Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu, Đỗ Phủ, Lục Du, Pushkin, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, v.v.

Tác phẩm chính

Tiểu luận phê bình

Chặng đường mới của văn học chúng ta (1961)

Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống (1979)

Những người thân những người bạn (2008)

Thơ ca

Quê hương chiến đấu (1955)

Đường chúng ta đi (1960), 15 bài thơ

Những cánh buồm (1964), 17 bài thơ

Đầu sóng (1968)

Trong gió lửa (1971)

Như đi trong mơ (1977)

Chiến công tuổi thơ (1983)

Hương mùa thơ (1984)

Tiếng thơ không dứt (1989)

Mời trăng (1992)

Khác

Hoàng Trung Thông thông thạo ba ngoại ngữ là tiếng Trung, tiếng Pháp và tiếng Anh. Ông là một dịch giả nổi tiếng đã dịch nhiều tác phẩm thơ và văn xuôi nổi tiếng thế giới. Ông còn là một họa sĩ tài hoa, bạn thân của các họa sĩ: Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Phan Chánh, Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Mai Văn Hiến,...

Thời Chiến tranh Đông Dương, bài thơ "Bao giờ trở lại" (sau này in trong tập Quê hương chiến đấu) của ông được hai nhạc sĩ là Lê Yên và Văn Phụng phổ nhạc thành hai ca khúc riêng biệt. Năm 1950, Lê Yên phổ nhạc và đặt nhan đề ca khúc là "Bộ đội về làng". Năm 1953, bài "Bộ đội về làng" được giải 3 của Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952.[2] Năm 1954, Văn Phụng phổ nhạc và đặt nhan đề là "Các anh đi". Nhạc bản "Các anh đi" do nhà xuất bản An Phú ấn hành ngày 9 tháng 12 năm 1954 chỉ đề "Thơ: khuyết danh".

Vinh danh

Hoàng Trung Thông đã được đặt tên đường tại TP Vinh, TP Nghệ An, TP Đà Nẵng và TP Vũng Tàu. 22/04/2013 Do Viện Văn học, Hội Nhà văn Việt Nam và Nha Trang đồng tổ chức. NXB Văn học tổ chức Tọa đàm khoa học về sự nghiệp văn học Hoàng Trung Thông (20 năm ngày mất nhà thơ Hoàng Trung Thông) tại Viện Văn học. Hội thảo đã thu hút nhà nghiên cứu tham dự và phát biểu ý kiến, trong đó có GS. Phong Lê, GS. Hà Minh Đức, GS. Nguyễn Huệ Chi, TS. Lê Thanh Nghị, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên v.v.

Đời tư

Hoàng Trung Thông lấy vợ là bà Hồ Thị Hoa, người cùng làng. Họ có năm người con được đặt tên theo các loài hoa: Bích Hồng, Bích Liên, Bích Hà, Hướng Dương, Phượng Vỹ. Họa sĩ Hoàng Phượng Vỹ, con trai ông, là người am hiểu văn học nghệ thuật. Với biệt danh "Vi Google", ông là một họa sĩ đương đại nổi tiếng của Việt Nam.

Giai thoại và Nnhận định

Nhà thơ Hoàng Trung Thông có tính cách phóng khoáng, hóm hỉnh. Nhà thơ Chế Lan Viên đã ưu ái tặng bài thơ “Tô Trang Thông họ Hoàng” cho người bạn thân thiết lúc sinh thời:

"Ông thì hay say

Tôi thì quá tỉnh

Mà ông đằm tính

Tôi thì hay gây

Thiên hạ người người yêu ông

Tôi thiên hạ ghét

Gặp tôi người ta lườm nguýt

Nghe ông người ta thông

Thế mà lạ không

Hai đứa thân nhau mãn kiếp".

Và chính Hoàng Trung Thông, người từng giữ địa vị cao trong giới văn hóa nghệ thuật, cũng dám thẳng thừng mổ xẻ gay gắt trong nhận xét về người bạn thơ: Chế Lan Viên không bao giờ khen thơ tôi, nhưng khi tôi viết thì thường. nói thơ cần say thêm. Tôi đã thử uống rượu cho say nhưng thơ tôi vẫn tỉnh như người ta nói.

NGUYỄN DUY


Nguyễn Duy (sinh ngày7/12/1948), ông là một trong những nhà thơ hiện đại của Việt Nam.

Tiểu sử tóm tắt

Nguyễn Duy Nhuệ sinh năm 1948 tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là huyện Đông Vệ, TP. Thanh Hóa), ​​tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, ông làm tiểu đội trưởng lực lượng dân quân đóng ở khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm bị không quân Mỹ đánh phá nặng nề trong chiến tranh Việt Nam. Nhập ngũ năm 1966, trở thành chiến sĩ tuyến của binh chủng thông tin, nhiều năm tham gia trận đánh trên các chiến trường Đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, Chiến trường Nam Bộ, Biên giới phía Bắc (1979). Trong thời gian này ông trở thành gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Sau đó ông giải ngũ về làm việc tại tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam và là đại diện cao cấp của tờ báo này tại phía Nam.

Nguyễn Duy làm thơ từ thuở còn là học sinh trường THCS Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: "Hơi ấm rơm", "Bầu trời vuông", "Nước mắt và nụ cười", "Tre Việt Nam trên cát trắng". Ngoài thơ, ông còn viết tiểu thuyết và ký. Năm 1997, ông tuyên bố sẽ “gác bút” để nhìn lại mình, sau đó tập trung làm lịch thơ bài và in thơ trên sơn, tre, lá, thậm chí cả bao tải. Từ năm 2001 anh đã in nhiều bài thơ trên giấy dó.Ông biên tập và xuất bản năm 2005 tập thơ thiền in trên giấy Dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông tuyển chọn) khổ 81 cm x 111 cm, nguyên bản, phiên âm, dịch nghĩa và dịch nghĩa chữ Hán. Dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và hình minh họa của bạn.

Tác phẩm chính

Thơ

Cát trắng (1973), 50 bài thơ

Ánh trăng (1978)[cần dẫn nguồn], 33 bài thơ

Đãi cát tìm vàng (1987), 38 bài thơ

Mẹ và em (1987)

Đường xa (1989), 19 bài thơ

Quà tặng (1990)

Về (1994), 49 bài thơ

Sáu và Tám (tuyển thơ lục bát, 1994)

Tình tang (1995)

Vợ ơi (tuyển thơ tặng vợ, 1995)

Bụi (1997), 49 bài thơ

Thơ Nguyễn Duy (2010, tuyển tập những bài thơ tiêu biểu nhất của ông)

Quê nhà ở phía ngôi sao (2017)

Tuyển thơ lục bát (2017)

Thể loại khác

Em-Sóng (kịch thơ, (1983)

Khoảng cách (tiểu thuyết, 1986)

Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, 1986)

Tôi thích làm vua (ký, 1988)

Ghi và Nhớ (ký, 2017)

Thành tựu nghệ thuật

Nhiều bài thơ của Nguyễn Duy có má nhưng vẫn điềm tĩnh và chiêm nghiệm, để cho người đọc thấm thía. Khi ấy người ta đôi khi bàng hoàng khi biết nhiều bài thơ của ông được độc giả yêu thích: Cây tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ già, Đò Lèn, Sông Thao,... .Nó được đánh giá cao ở thể thơ lục bát, một thể thơ cảm thấy dễ viết nhưng khó viết hay. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ lỏng, chặt. Các nhà phê bình nhìn thấy ở Nguyễn Duy một đóng góp vào việc đổi mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Cây tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.

Nguyễn Duy còn có chùm ba bài thơ tự do nổi tiếng được công chúng viết về những ưu tư, trăn trở về tương lai đất nước, con người và môi trường. Bài thơ đầu tiên có tựa đề Thức tỉnh lực lượng được viết trong khoảng thời gian từ 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm năng và tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được Người viết trong chuyến thăm Liên Xô và hoàn thành năm 1988 vào năm với tựa đề Nhìn từ xa...Quê hương". Bài thơ xử lý những trì trệ và bất cập mà ông đã thấy và nghe thấy trong thời bao cấp bằng những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát dao cắt vào tim người đọc" (Lê Xuân Quang). , Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, vẫn giữ nguyên thi pháp như hai bài thơ trước, nhưng chủ đề mở rộng hơn: những suy tư về thiên nhiên, không gian và con người trong tương lai.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói: “Nhân vật Nguyễn Duy như mảnh đất hoang, thơ Nguyễn Duy là cây quý mọc trên mảnh đất hoang này. Anh đã đoạt Giải Mai Vàng 1997 với tập thơ Bụi.

Nhà thơ Nguyễn Duy và những tác phẩm của ông chắc chắn đã đi vào lòng biết bao thế hệ. Có thể trong mỗi câu thơ của ông đều có sự chiêm nghiệm mà ông muốn gửi đến người đọc và điều đó vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến nhận thức của người đọc cho đến ngày nay.

“Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm

Bà mẹ đón tôi trong gió đêm

– Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ

Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ

Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm

Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm

Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng



Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm

Của những cọng rơm xơ xác gầy gò

Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no

Riêng cái ấm nồng nàn như lửa

Cái mộc mạc lên hương của lúa

Đâu dễ chia cho tất cả mọi người”.

Trích Hơi ấm ổ rơm – Nhà thơ Nguyễn Duy.