Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2023

TỪ THẾ MỘNG



Từ Thế Mộng

Tên thật Nguyễn Đình Tư. Sinh năm 1937 tại Phước Yên, Quảng Điền, Thừa Thiên, Huế. Năm mười tuổi theo gia đình vào Phan Thiết và sống luôn ở đó.

Tác phẩm đã in:

-Tiếng Thơ Miền Trung ( 1959) in chung thơ ở Huế.

-Tình Thầm Lặng ( 1995) in chung thơ, Bình Thuận.

- Biển Của Một Thời ( 1999) in chung thơ.TP/Hồ Chí Minh.

- Lời ca Cỏ Non( 2001) Thơ.nxb/ Trẻ. Tp.HCM

- Lẹo Đẽo Một Phương Quỳ. 2002.Thơ.nxb/Thư Ấn Quán. Hoa Kỳ.

-Dáng Mẹ Trăm Chiều. (2003)Văn.nxb/Thanh niên.

-Trường Ca Má Thương Yêu ( 2005).Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Thuận.



- Thơ Từ Thế Mộng( 2007)nxb/Văn Nghệ.tp/HCM

(tác phẩm được phát hành gần hai tháng trước ngày anh mất)

Anh mất vào ngày 13-5- 2007 tại Phan Thiết.

Ðọc thơ Từ Thế Mộng

Lãm Thúy

( Lẽo Ðẽo Một Phương Qùy )

Hình như giữa năm 2003. Trần Hoài Thư có tặng Lãm Thúy tập thơ “Lẽo đẽo một phương quỳ”. Cái tên nghe ngồ ngộ, còn Từ Thế Mộng _ Tác giả _ thì vẫn còn xa lạ với Lãm Thúy. Dù trước 75, Lãm Thúy rất mê thơ và cũng biết được một số bài thơ tiêu biểu của các tác giả quen thuộc.

Tập thơ mỏng đọc hơn nửa đêm đã hết, nhưng dư âm của nó thì để lại lâu dài.

Thơ Từ Thế Mộng hay, nói vậy hình như còn chưa đủ. Nó còn bao gồm cả sự duyên dáng, dí dỏm, chân thực và rất dễ cãm nhất là thơ lục bát của ông thật mượt mà.

“Còn gì lại giữa mông mênh

Có cô em đứng làm thinh mỉm cười!”

(Buổi trưa rượu ngà ngà tắm biển Ninh Chữ)

Cũng trong bài này, tác giả đã bộc lộ ra bản chất của mình:

“Đất trời cũng nhẹ như ta

Cũng phiêu lãng tắm, cũng tà tà bay”

Cái không gian trong thơTừ Thế Mộng là biển và dĩ nhiên, hầu hết những hình bóng Mỹ nhân đều mặc aó tắm:

“ Anh đứng trên bờ

Chờ em đến thiên thu

Còn hắt bóng

Em thanh thản đi lên

Thân thể mịn căng trong chiếc aó tắm màu xám

Với bàn tay nâng ướt tóc

Nghẹn ngào

Anh thấy mắt em nâu!

(Chờ em đến thiên thu)

Dời mắt khỏi thân thể “ mịn căng” ấy để còn có thể thấy mắt em nâu. Tác giả “nghẹn ngào” là phải. Cách diễn tả thật đạt! Sự ngưỡng mộ tình yêu thương, lòng ham muốn khát khao, tất cả họp lại làm thành nỗi nghẹn ngào một trạng thái xúc động tột cùng gần như đau đớn.

Tả về cô gái nhỏ cao nguyên, ngây thơ như con nai rừng, Từ Thế Mộng viết:

“Đôi vú nâng nâng trên ngực em trần

Là gái lạ của trời cao nguyên đó

Ánh mắt hoang vu, nụ cười trẻ nhỏ

Thịt da nàng in nắng mới tinh khôi.”

(Nai rừng)

Cái đẹp của thân thể phụ nữ, nhất là những gái tơ nõn nà, được nhà thơ miêu tả vô cùng hấp dẫn, gợi cảm, mời mọc:

“Thân thể em căng ra như những sợi dây dàn

Căng ra

Và sắp nở

Những đóa hoa trên aó tắm xanh em.

Không còn xanh

Mà như lửa

Anh tan thành giọt nhỏ

Ríu hương em

Mà nổi điệu đàn lên

Điệu đàn em

Ôi trời ơi

Muốn rụng ra ngoài tim”

( Cây đàn muôn điệu )

Thơ Từ Thế Mộng như thế đó . Cái hừng hực như lửa của lòng đam mê, của sự khát khao, của ý chiếm đoạt. Tất cả bộc lộ hồn nhiên, không che giấu.

Thơ anh có những câu thắp bừng bừng lửa dục, nhưng là thứ lửa dục đáng yêu, sự ham muốn chiếm ngự, thống lĩnh cái đẹp, thứ lửa nồng nàn của một trái tim say đắm. Đọc thơ anh như vậy, rồi nghĩ đến sự tàn phá của thời gian, sự lụi tàn của đời sống, những thứ đáng buồn ấy đã mang anh ra khỏi cuộc đời. Nghe sao thật ngậm ngùi.

Tình yêu trong thơ Từ Thế Mộng thiết tha vô cùng. Chính sự mẫn cảm với cái đẹp làm thơ anh thêm duyên dáng, dễ thương. Anh không chối bỏ cái «mê gái» của mình khi chiêm ngưỡng những dung nhan mỹ nữ :

Áo trắng ngây thơ đôi vú nhỏ

Áo xanh mơn mởn bờ mông non

Áo hồng chúm chím môi vừa nụ

Ôi gái tơ nào hoa chẳng thơm !

(Gái tơ trang 78 )

Trong bài thơ « Biển màu » , cái đẹp lồ lộ, khêu gợi :

Chập chùng hoá những bờ vai

Hoá ra em trắng từ hai bán cầu.

Chưa hết đâu, trong bài thơ ngắn « Biển hừng », nỗi rạo rực đắm say còn bộc lộ rõ ràng hơn :

Em nhỏ nhẻ đi lên

Biển còn xanh ướt tóc

Sao áo tắm hoa em

Lại hừng như lửa bốc ?

Cái cách đão ngữ tự nhiên trong thơ Từ Thế Mộng làm tăng thêm sức gợi cảm, thi vị của thơ : « Áo tắm hoa »

« Lửa bốc » « áo xanh em »

Cũng trong chiều hướng thưởng thức cái đẹp thiên nhiên của gái tơ ta thấy :

Tà Dôn

Có gái ngủ ngày

Ngực non tơ

Nhú

Xanh đầy áo hoa.

( Quê nhà lẩn thẩn trang 65 )

Nỗi nhớ quê nhà của thi nhân cũng đặc biệt hơn thiên hạ. Hình ảnh « ngực non tơ _ nhú » thật xiết bao gợi cảm, đi cùng màu sắc « xanh đầy áo hoa » thì thật tuyệt !

Đọc thơ Từ Thế Mộng, thấy quả là nhan sắc được tôn vinh. Từ đó chúng ta tự hỏi phải chăng những phụ nữ, nhất là phụ nữ đẹp cũng cần có những đàn ông « mê gái» để chiêm ngưỡng sắc hương của mình ? Và hẵn là hãnh diện biết bao cho những mỹ nhân nào đã từng là đề tài, là niềm thi hứng cho những thi nhân viết lên những dòng thơ tuyệt diệu, những trang thơ mượt mà , thắm đượm để lại cho đời như câu thơ :

Tặng em

Nõn hoa lan này

Để hoa

Thơm được bàn tay

Em cầm

(Ngọc Lan trang 68)

Ôi! Lãng mạn và dễ thương làm sao! Hoa Ngọc Lan trắng trong tinh khiết, thơm tho ngần ấy, mà còn hãnh diện bởi được bàn tay em cầm, thì quả là bàn tay ngà ngọc ấy còn trắng muốt thơm lừng hơn cả Ngọc Lan hương

Chỉ tặng một đoá hoa, qua đó đủ nói lên trọn vẹn niềm ngưỡng vọng thiết tha.

Chính bởi mối tình si mê ấy, thi nhân mới nói rằng:

Có em

Có cả thiên đường

Không em

Chút cỏ vô thường

Cũng không!

( Giọt mưa của tôi trang 37 )

Có khi đọc thơ, ta cảm được vì ta hiểu điều tác giả muốn nói, có khi , hơn thế, ta hiểu cả những điều tác giả không định nói. Riêng Lãm Thúy, khi đọc thơ, có khi không hiểu gì cả mà vẫn cảm thấy hay. Ví dụ như hai câu « Không đề 1 » ( trang 32)

Thấy em một chút đã mừng

Cần chi biết sợi dây lưng ngắn dài !

Sao mà có cái dây lưng vào đây không biết nữa !

Nhưng trong hai câu « Không đề 2”

Anh ơi đừng nhíu lông mày

Đừng xao xác ngó mà trầy trụa em.

………thì Lãm Thúy hiểu liền, mà còn hiểu sâu sắc nữa là khác.

Tiếng Việt ta có thành ngữ “Ngó như lột trần người ta”. Nhà thơ tài hoa của chúng ta còn dữ dội hơn: ngó đến “trầy trụa”.

Thử nghĩ xem, Từ Thế Mộng ở biển, yêu biển, cả một rừng sắc hương trong thơ anh và cả một rừng áo tắm.

Áo rượu chát, áo hoa, áo xám, áo xanh, áo đỏ, áo trắng, áo hồng…ngó miết mà người đẹp sợ “trầy trụa” sắc hương.

Cũng có những khi, thơ ông hiền hoà những mối tình trong sáng:

Cặp đầy ấp

Mộng vàng hoe

Thôi

Em đừng gõ

Guốc đè ngợp anh!

(Bài ca Áo trắng trang 89)

Tưởng tượng phong phú thay! Tiếng guốc học trò gõ nhịp trên đường mà có thể đè ngợp người tình si. Cũng bởi lòng si mê, nhung nhớ tương tư ấy mà:

Nghe từng giọt

Nhểu

Đêm

Đen

Nhớ em

Lẩn thẩn

Đốt đèn

Đếm

Mưa!

(Đếm mưa trang 91)

Cũng bởi niềm say mê cuồng nhiệt ấy, nên :

Ta còn hay đã mất ?

Có sá gì đâu em !

Xa em, ở đâu rồi cũng chỉ là hoang mạc

Hồn ta, ngọn đèn tàn hắt hiu !

( Như là chiêm bao trang 104)

Thơ Từ Thế Mộng luôn ánh lên cái sắc đa tình.

Cho anh hôn

Cả nốt ruồi son anh

Trong mình em

Bừng bừng

Lửa cháy

(Cho anh hôn trang 33)

Cũng chính bởi tính “mê gái” ấy mà tác giả thú nhận:

Thấy em mặc áo tắm

Anh cứ hay rùng mình

Khoảng hở và khoảng khuất

Cứ làm anh chông chênh!

(Chông chênh trang 84)

Nhưng trong thâm sâu hồn anh ta đọc thấy có nỗi gì đó thật xót xa, thật tội nghiệp. Đó là khi:

Chờ em cho mãn kiếp

Chờ

Cho chiêm bao vẫn cứ ngờ

Chiêm bao!

Cho mình

Như dĩa dầu hao

Giốc tim

Rót hết lửa vào

Phương em!

Cho mình

Đêm cứ thừa đêm

Thấy em cuộn bóng mình bên

Gối người!

(Chờ em _ trang 36)

Ý thơ đau xót này, ta bắt gặp lần nữa trong bài thơ “Đêm trăng nghe tiếng vạc kêu” (trang 102)

Xẹt ngang qua mái hiên nhà

Không gian rộng

Bỗng vỡ oà

Vạc kêu!

Tiếng kêu

Lạnh chỗ anh nằm

Nghe quằn quại

Cả tiếng lòng

Quạnh hiu

Giật mình

Thấy mộng quàng xiên

Thấy tay em đã

Mòn yêu dấu người!

Thú thực, đây là bài thơ Lãm Thúy yêu nhất trong cả tập thơ của Từ Thế Mộng. Câu thơ hàm súc biết bao, ngậm ngùi chua xót biết bao, những khoảnh khắc đau xót như vậy trong đời người cũng đủ làm tan nát cả trái tim rồi.

Tiếng vạc kêu sương đêm trăng buồn, quằn quại như tiếng lòng hiu quạnh, hoang vu. Nhớ đến người mơ, mộng mị quàng xiên , như câu hát nào tội nghiệp:

“ Em trong vòng tay lạ

Em thành đàn bà

Cho anh xót xa!”

Ở đây, không những em đã là đàn bà trong vòng tay khác mà câu thơ còn ẩn chứa nỗi buồn rầu cay đắng trong câu ca dao:

Cổ tay em trắng lại tròn

Em để ai gối nó mòn một bên!

Ôi! người đàn bà mình yêu, tay mòn yêu dấu, thân mòn gối chăn với ai đâu. Buồn chưa!

Trong trái tim đa tình, lãng mạn của thi nhân, Từ Thế Mộng còn chứa động biết bao tình cảm đằm thắm ngọt ngào cho những thân yêu ruột thịt _ cha mẹ, vợ con _ bạn bè, cháu chắt, quê hương:

Cha già gót nhẹ như tiên

Thương cha thương cả ưu phiền của cha

Ngày qua rồi tháng cũng qua

Chỉ lòng hiếu thảo là hoa không tàn

(Hoa không tàn Trang 30)

Và người cha thân yêu của ông được hình dung đơn sơ, mộc mạc.

Sướng sao là cái sơ sài

Cực sao là cái động hoài tới thân”

Còn mẹ, bao giờ cũng là hình ảnh tảo tần:

Suốt đời lặn lội vì con

Quản gì thân mẹ có còn hay không?

Viết cho con trai, Anh nói:

Con mãi là nụ hồng

Trong lòng ba chớm nở

( Bài thơ mừng con trai Trang 45)

Cho con gái thì :

Ba còn gì để lại cho con

Ngoài những bức thư tình ba viết cho má con

Và những bài thơ cô đơn của ba

( Bức thư của người con trai Trang 51)

Với bạn bè cũng thắm thiết yêu thương.

Càng cầm tay nhau, càng chếnh choáng

Bịn rịn

Rời nhau là lênh đênh !

(Phan Thiết từ đây ta lẻ bạn _Trang 17)

Riêng câu thơ viết cho Bo _ “Bé ngoại” thật dễ thương:

Trong vòng tay ấm bao la

Ngước lên hỏi mẹ

Quê nhà

Ngoại đâu?

Chỉ ngần ấy thôi, đủ biểu lộ một trời yêu thương ngọt ngào, những ngọt ngào mà chua xót hơn cả là tình thương bao la tác giả dành cho đứa con bệnh hoạn tội nghiệp.

Mọi người quen đều thương mến con

Con lộ ra biết bao điều khác

Rất tự nhiên dễ cho người tội nghiệp

Con trú mình như một vết thương!

Đứa trẻ “sinh ra để gánh nợ đời”

Gánh xấu xa cho anh

Gánh ngu đần cho chị

Gánh bệnh hoạn cho mẹ cha thỏa lòng sáng ý

Bằng hồn con ngờ nghệch giữa nhân gian

Còn thơ cho vợ, người đầu ấp tay gối, anh viết thật tức cười

Hỡi em rất hay ghen chồng

Hít hà chi lắm cho lồng lộn lên

Lộn lồng ông mới quàng xiên

Không dưng sao lại làm duyên hít hà.

Phần này thì để người đọc tự hiểu, Lãm Thúy không dám phân tích.

Riêng tình quê hương vẫn bàng bạc trong tim anh bằng những nỗi nhớ nhung đau xót:

Và trái tim con

Đau thắt nỗi quê nhà

Và biết bao những hình ảnh núi non, biển sóng, Tà Dôn, Phan Thiết, Qui Nhơn.

Muốn có một cái nhìn tổng quát về thơ Từ Thế Mộng, Lãm Thúy bắt buộc phải phân tích cà hai mặt: mặt nổi là tính dê gái , bạn bè ai cũng biết, thơ anh bộc lộ rõ ràng, còn mặt kia là một con người đầy ắp lòng yêu thương, chân tình, giấu kín một hồn thơ sâu lắng buồn rầu, cô đơn.

Muốn viết về thơ anh lâu rồi, từ ba bốn năm trước, nhưng Lãm Thúy tự biết mình không có khả năng đó và cảm thấy mình tầm thường, nhỏ nhoi, không xứng đáng để phê bình một nhà thơ đã thành danh trước 1975. Nay, người thơ đã đi về cát bụi, những cảm nghĩ đơn sơ này thay cho một lời tiễn biệt muộn màng gửi đến Từ Thế Mộng, một thi nhân tài hoa mà Lãm Thúy đầy lòng ngưỡng mộ.



Thứ Năm, 20 tháng 4, 2023

VÕ HỒNG


1 Võ Hồng
Võ Hồng sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921 tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Truyện ngắn đầu tay của ông Mùa gặt đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy vào năm 1939 với bút danh Ngân Sơn. Đến năm 1959, ông gia nhập làng văn với tập truyện ngắn Hoài cố nhân.
Là nhà văn nhưng Võ Hồng có nhiều năm gắn bó với sự nghiệp dạy học. Ông theo học tú tài ở Hà Nội, chưa tròn năm thì chiến tranh nổ ra, ông lên tàu về quê (năm 1943) và dạy học. Ông từng giữ các chức vụ Trưởng ty Bình dân học vụ tỉnh Phú Yên (1949) và là hiệu trưởng một số trường trung học tại Phú Yên, Nha Trang cho đến khi về hưu năm 1978.
Văn của ông chứa đựng sự gắn bó yêu thương con người, yêu thương quê hương, dân tộc một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút Võ Hồng, hình ảnh quê hương, con người Việt Nam được ghi lại như những bức tranh sinh động, trung thực và đầy rung cảm. Tác phẩm của ông ghi lại khá chân thực và tinh tế cuộc sống, sinh hoạt của người dân vùng Nam Trung Bộ. Nhiều tác phẩm của Võ Hồng đã được trích giảng trong sách giáo khoa văn cho chương trình trung học trước năm 1975. Sau năm 1975, văn nghiệp của ông là đề tài cho nhiều luận án tiến sĩ, thạc sĩ văn chương.
Ông được đánh giá là một trong những nhà văn lớn của Việt Nam.
Từ năm 1956 ông sống tại Nha Trang cho đến lúc qua đời. Từ năm 2006, do tuổi cao, ông mắc bệnh nặng, phải nằm một chỗ. Đến 31 tháng 3 năm 2013, ông qua đời tại nhà riêng ở Nha Trang.
Thời trẻ/ khi chưa nổi tiếng
· Thuở nhỏ, Võ Hồng theo học trường làng Ngân Sơn, trường phủ Tuy An, trường huyện Sông Cầu, sau đó học trường trung học Quy Nhơn.
· Năm 1940, ông học tú tài ở Hà Nội.
· Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, ông làm bí thư tòa Tổng Đốc 4 tỉnh miền Nam Trung Việt đóng tại Đà Lạt.
· Trong kháng chiến, ông làm Trưởng ty Bình dân học vụ tỉnh Phú Yên, năm 1949.
· Năm 1953, ông bị bệnh và xin nghỉ dài hạn.
· Năm 1954, ông đưa gia đình về sống ở Ðà Lạt.
· Từ năm 1956 - 1975, ông đi dạy học ở trung học bán công Lê Quý Đôn, sau đó làm Hiệu trưởng trường PTCS Tân Lập, Nha Trang.
· Đến năm 1978, ông về nghỉ hưu.
Gia đình :
Võ Hồng lập gia đình, đến năm 1957 thì vợ ông qua đời, để lại ba con nhỏ: lớn nhất 9 tuổi và nhỏ nhất 3 tuổi. Từ ngày vợ mất, ông không lấy người khác, vì ông sợ lấy vợ lần nữa sẽ làm khổ các con. Sau này, các con đều lớn, ông vẫn sống một mình tại nhà riêng ở 53 đường Hồng Bàng, Nha Trang .Các con của nhà văn Võ Hồng đều không theo nghiệp cầm bút và chủ yếu sống ở nước ngoài, nên Giáo sư – Tiến sĩ Huỳnh Như Phương có ba đề nghị. Thứ nhất, xin gia đình nhà văn Võ Hồng ủy quyền cho Trường Đại học Phú Yên lưu trữ và quản lý toàn bộ bản thảo, sách vở của ông, vì hiện nay vẫn còn những di cảo của Võ Hồng chưa được công bố và một số tác phẩm được tái bản nhưng có nhiều lỗi kỹ thuật do in ấn. Thứ hai, xin các nhà biên soạn sách giáo khoa bậc tiểu học và trung học quan tâm chọn lựa văn bản tác phẩm Võ Hồng để giảng dạy cho học sinh. Thứ ba, thành phố Tuy Hòa và thành phố Nha Trang nên có con đường mang tên Võ Hồng, đặc biệt là huyện Tuy An nên có trường tiểu học hay trung học mang tên Võ Hồng.
Tác phẩm
Tác phẩm văn chương của ông gồm 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều tập tùy bút, bút ký, truyện viết cho thiếu nhi; hơn 40 bài viết, bài khảo cứu, phê bình văn học. Đến trước khi mất ông, Võ Hồng đã in 30 cuốn sách thuộc nhiều thể loại. Tác phẩm Tiếng chuông chiêu mộ (in 2005) được xem như cuốn sách cuối cùng của Võ Hồng.
Võ Hồng có truyện đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy từ năm 1939 nhưng mãi đến 1959, ông mới xuất bản tập truyện đầu tay Hoài cố nhân gồm những truyện viết về người vợ yêu quý của ông mất cách đó vài năm. Võ Hồng “gà trống nuôi con” cho đến khi các con trưởng thành, bay đi bốn phương trời, ông lại sống một mình với cây bút và những bản thảo, những cuốn sách cho đến hết đời. Từ sau năm 1975, hầu hết tác phẩm Võ Hồng đã được tái bản. Có thêm 14 đầu sách mới của ông được ấn hành. Nhưng theo lời Võ Hồng, số lớn trong đó được ông viết từ trước. Sau này ông chỉ sửa chữa và viết bổ sung. Chỉ có tập tâm bút Một bông hồng cho cha, tập truyện vừa Thương mái trường xưa và tập thơ Hồn nhiên tuổi ngọc là mới sáng tác sau này. Những tác phẩm quan trọng của ông cũng được in lại ở Mỹ, Pháp - nơi có đông người Việt sinh sống.Dưới đây là một số tác phẩm chính.
Tiểu thuyết, truyện dài
· Hoa bươm bướm (1966)
· Gió cuốn (1969)
· Thiên đường ở trên cao (1978)
· Trong vùng rêu im lặng (1988)
Truyện ngắn
· Mùa gặt (1939)
· Hoài cố nhân (1959)
· Lá vẫn xanh (1962)
· Vết hằn năm tháng (1965)
· Con suối mùa xuân (1966)
· Vẫy tay ngậm ngùi (1992)
· Vùng trời thơ ấu (1995)
Tùy bút
· Một bông hồng cho Cha (1994)
· Trầm tư (đoản văn, 1995)
Thơ
· Hồn nhiên tuổi ngọc (1993)
                        


Y UYÊN



Y Uyên

Tiểu sử cuộc đời

Sinh năm 1940 (khai sinh là 1943) tại thôn Dục Nội (nay thuộc xã Việt Hùng), huyện Đông Anh, Hà Nội.

Năm 1954, theo gia đình vào Nam, định cư tại quận Gò Vấp (Sài gòn). Bắt đầu viết văn rất sớm lúc khoảng 15 tuổi nhưng tác phẩm đầu tay của Y Uyên, Một chỗ cho người tàn tật, chỉ xuất hiện vào năm 1960 trên Bách Khoa, một tạp chí chuyên về biên khảo dành chủ yếu cho giới trí thức ở miền Nam.

Trong những năm sau đó, ngoài Bách Khoa, Y Uyên còn cộng tác với nhiều tạp chí văn học, văn nghệ khác như Văn, Văn Uyển, Tân Văn…

Tốt nghiệp trường Sư phạm Sài gòn, Y Uyên trở thành nhà giáo và được phân công ra dạy học ở Tuy Hòa, Phú Yên. Được ít lâu, Y Uyên bị động viên và theo học trường Võ bị Thủ Đức. Nhà văn mất năm 1969 ở gần núi Tà Zôn, Bình Thuận.

Tuy mất sớm vào lúc mới có 29 tuổi đời nhưng Y Uyên đã để lại một văn nghiệp tương đối phong phú gồm 6 tuyển tập truyện ngắn và một truyện dài viết trong thời kỳ 1960-1968: Tượng Đá Sườn Non (Thời Mới, 1966), Bão Khô (Giao Điểm, 1966), Quê Nhà (Trình Bày, 1967), Ngựa Tía (truyện dài, Giao Điểm, 1967), Đuốc Sậy (Văn Uyển, 1969), Chiếc Xương Lá Mục (Tân Văn, 1971) và Có Loài Chim Lạ (Tân Văn, 1971). Tạp chí Văn cũng xuất bản một số đặc biệt Thương Nhớ Y Uyên (1969) bao gồm nhiều bài viết của văn hữu và gia đình, bạn bè về nhà văn.

Núi Tà Dôn và dấu chân Y Uyên

TÁC GIẢ, ĐÔI LỜI…

Ba mươi sáu năm về trước, nói rõ hơn, đúng vào ngày mồng một tháng Năm năm 1969, sau khi nhà văn Y UYÊN chết, trên tạp chí VĂN của Ông Trần Phong Giao, số tưởng niệm nhà văn Y UYÊN, Lê Mai Lĩnh tôi, dưới bút hiệu khai sinh Lê Văn Chính, đã có một bài viết, về cái chết của một người huynh trưởng, Y UYÊN, anh khóa 27, tôi khóa 1/68, trường Bộ Binh Thủ Đức, bài này nằm giữa, trước là Võ Phiến, sau là Thanh Tâm Tuyền. Điều rất vui là tôi nằm giữa, những bậc đàn anh, bậc thầy.





Bài viết, như một kỷ niệm, tưởng chừng như đã chết.

Nhưng. Không ngờ. Không dự báo trước. Nhà văn Phạm Văn Nhàn cùng nhà văn Trần Hoài Thư, trong tổ hợp xuất bản Thư Quán Bản Thảo trong nỗ lực thực hiện một ấn bản tưởng niệm nhà văn Y UYÊN, hai anh đã vận động được những bạn bè trong nước, những người cầm bút trước 1975, còn sa cơ lỡ vận trong Địa ngục trần gian Việt Cộng, tìm kiếm tài liệu, vận dụng trí nhớ và tình yêu đối với Nhà văn Y UYÊN để có bài và viết bài cho số báo đặc biệt. Nhà thơ Nguyễn Lệ Uyên, dù đang cuốc đất, cày ruộng tại Tuy Hòa, cũng đã tìm được số báo VĂN tưởng niệm Y UYÊN (số 129), trong đó có một bài viết, đã trải qua 36 năm, nhưng còn Nóng Hổi chất “Văn Học, Tính Người và Nhân Bản’’ của người lính, Chuẩn úy Lê Văn Chính năm 27 tuổi: ‘’Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy’’. Lê Mai Lĩnh nhận được bài nầy từ Phạm Văn Nhàn, qua bưu điện vào lúc 11 giờ 30 ngày 1 tháng 12 năm 2004.

Lê Mai Lĩnh, đọc lại bài viết, sau khi đã uống xong 5 chai Heineken, hắn sung sướng và hắn khóc. Hắn không ngờ, 36 năm về trước, hắn thông minh, tài hoa và láu cá đến như thế.

Cho đăng lại một bài viết, tưởng chừng như không còn tồn tại trên cõi đời nầy, để quý độc giả chia sẻ niềm hạnh phúc với người thanh niên 27 tuổi vào năm 1969, cũng là người lính, người cầm bút, cũng là một kẻ rong chơi trong cõi ta bà Thế Giới, là tôi: LÊ MAI LĨNH.

01/12/2005

Đêm 8.1.69

Tôi nghĩ là hắn. Đúng là hắn. Chẳng thế nào là ai khác, ngoài hắn. Tôi biết hắn đóng ở Nora. Tôi biết ngay khi đến đây, hai tháng sau ngày hắn đến. Trình diện phòng I, hỏi thăm, được biết hắn đang ở Nora, tôi thú thật: tôi thất vọng. Thất vọng vì người ta không dùng hắn như một nhà văn có tài (26 tuổi với 4 tác phẩm vững vàng, phong phú biết bao). Người ta dùng hắn như một chuẩn uý, trung đội trưởng địa phương quân. Nhớ đến thơ Luân Hoán: Tôi là một sĩ quan mù, chỉ huy một trung đội điếc… Lúc này, nếu gặp Uy, tôi ắt hỏi: mày có mù, lính có điếc? Hỡi Uy!

Tôi nghĩ đến hắn. Tôi nghĩ ngay Uy như thế khi người lính truyền tin ở yếu khu Phú Long nói cho tôi biết, có một Chuẩn Uý ở đồn Nora đã mất tích!

Đêm nay đến phiên tôi dẫn lính giữ cầu Phú Long, ngủ dưới gầm cầu. Tôi nghĩ là Uy không thể chết. Chỉ những viên đạn vô tình thì mới không phân biệt được, còn như nếu bị bắt, Uy không thể chết. Việt cộng có thể không coi trọng Uy như một nhà văn. Nhưng biết đâu chúng chẳng dẫn Uy ra Bắc rồi tuyên truyền ầm ĩ là chính Uy đã ‘’trở về với nhân dân’’. Rồi Uy sẽ được dẫn đi khắp nơi, sẽ lên tiếng ở đài phát thanh, sẽ kêu gọi bạn bè của anh trong ban biên tập nguyệt san Bộ Binh…

hãy ‘’quay súng về với nhân dân’’. Rồi Uy sẽ được một thiếu nữ xinh đẹp, ngon lành nhất Hà Nội ôm hôn và choàng hoa. Có thể nữa, Uy sẽ làm tờ chối từ những tác phẩm của anh. Rồi Uy sẽ bắt đầu lại từ đầu, trong sự dẫn đường ‘’của Bác và Đảng’’. Tôi nghĩ đến Uy trong một cuộc đời mới. Tôi cũng định tâm từ nay theo dõi đài Hà Nội, để chờ nghe hắn lên tiếng. Tôi không một mảy may nghĩ rằng hắn sẽ chết. Tôi không nghĩ là hắn sẽ chết nếu bị rơi vào tay Việt cộng, nhưng tôi tin hắn sẽ thoát xác một cách chóng vánh và tức cười.

Ngồi trên thành cầu đến khuya, tôi nhìn về phía ngọn núi Tà Dôn và tôi nghĩ, lúc này có lẽ hắn đang bị trói tay, cũng có thể không bị trói tay nếu gặp được những đứa Việt cộng biết trọng nhân tài, và đoàn người có Uy đang di chuyển trong đêm lấy núi làm chuẩn.

Ngày 9.1.69

Đến nhà Nguyễn Hiếu Học lúc 1giờ 30, tôi gặp Thái Phi Kích. Và bây giờ tin Uy tử trận đã rõ ràng. Chúng tôi lặng người. Trước mọi cái chết, sự lên tiếng, dù thế nào cũng đều lố bịch – nhất là trước những cái chết của những trường hợp như Uy, những người hiếm hoi như Uy.

Học nói cho tôi biết về những giấy tờ do đâu đó làm chậm trễ, gây nên cái chết của Uy, chứ đáng ra Uy đã được về Cục CTCT. Lúc đó hình như tôi có chửi đổng một câu. Cũng không mấy tin tưởng là tin Uy tử trận sẽ sớm được thông báo cho gia đình Uy nên chúng tôi chia tay nhau đi nhờ gọi điện thoại vào Sài Gòn, tới hai nơi mà chúng tôi tin là có người biết nhà của Uy, tòa soạn Bách Khoa và Văn. Buổi chiều hôm đó, Thái Phi Kích đã nói chuyện được với Sài Gòn. Chúng tôi tạm yên tâm là hôm sau thế nào cũng có thân nhân của Uy ra.

Chúng tôi lên Quân y viện Đoàn Mạnh Hoạch thì tin xác Uy chưa được chở về.

Tôi để Học và Kích lại nhà, rồi lên đồn, trong ý định xin Đại Đội Trưởng về nhà một đêm để tiếp tay các bạn. Tôi vừa lên đồn – lúc đó khoảng 6 giờ chiều – thì nhận được lệnh cùng với đại đội trưởng đi hành quân mở đường khoảng Phú Long – Tuy Hòa cho đoàn công voa chở xác Uy về.

Khi đến Ba Cây, tôi gặp chiếc xe Hồng Thập Tự. Người tài xế cho biết ông chuẩn uý nằm trên băng ca, còn dưới sàn xe là hai người lính. Lúc đó, tôi vạch tấm vải làm cửa xe và tôi chỉ kịp nắm bàn chân Uy vừa khi chiếc xe rồ máy chạy. Trở về đồn đã hơn 7 giờ, tôi phải ở lại đồn, chẳng giúp gì cho Học và Kích đêm đó.

Uy ra trường trước tôi một tháng. Ngày còn ở trong trường Thủ Đức chúng tôi thường gặp nhau vào chiều thứ sáu mỗi tuần. Ngày bàn giao ban biên tập, chính nhờ Y Uyên mà chúng tôi, trong số đó có các anh Dương Kiền, Lê Tất Điều… được ăn một chầu hột vịt lộn, nhậu bia 33..

Đến khi về Phan Thiết, tôi được tin anh đóng đồn ở Nora, thỉnh thoảng mới có dịp xuống phố. Vài lần anh tìm đến thăm tôi, nhưng không gặp. Mấy lần nghe tin anh về, tôi tìm thăm, nhưng anh đi vắng.

Chiều nay, bên lề đường, tôi nắm chân anh trong lúc giữ phần an ninh lộ trình cho chuyến xe chở xác. Lúc trở về đồn, tôi không thể ngăn mình suy nghĩ mông lung. Mọi người sinh ra, mọi người phải chết. Mọi người, với tư cách công dân, phải góp phần cho sự trường tồn của Tổ Quốc. Nhưng mỗi người thực sự chết có nghĩa lý khi y được xử dụng đúng. Trường hợp của Uy, cái chết dưới chân núi Tà Dôn, năm 26 tuổi, là một cái chết uổng…

Chiều đến, tôi chở Kích và Học lên nhà xác Quân Y Viện. Đó là một đỉnh cát trắng, trông ra biển cả. Những ngọn gió quất tứ tung vào mặt, thổi cát lấp lên lá cờ vàng ba sọc phủ trên áo quan. Nắm cơm và bọc nước cam vàng trong túi nylon cùng với điếu thuốc do người chị đốt cháy mời gọi Uy trở dậy, sao em tôi nằm đây, em tôi không cần tổ quốc ghi ơn, Uy ơi là Uy… Tất cả, thực sự để làm gì? Để đổi lấy những cái chết, để chứng kiến những cái chết, để đợi chờ những cái chết. Can đảm, sáng suốt, hiên ngang cách mấy, trước buổi chiều đó, trước cái chết đó, trước cảnh thê lương ảm đạm của cái cảnh bạn bè nằm xuống đó, người ta cũng nghẹn ngào, tức tối. Trong chúng tôi những thằng bạn cũ của Uy đứng đó, đều thấy rằng, khi ta còn sống, còn lên mặt trận, ta còn được bọc quanh mình bằng những gian trá, bằng những lừa dối. Nhưng khi ta chết đi, điển hình là Y Uyên nằm đó, trong quạnh hiu, buổi chiều nay, trên đồi cát này, có ai làm được cái gì hơn là cho một làn kẽm để bọc, một lá cờ vải để che. Một làn kẽm để bọc. Còn như ngại đường xa, thêm một làn kẽm nữa, tang gia phải trả thêm ba ngàn đồng phí tổn.

10.1.69

Sáng nay chúng tôi được tiếp chuyện trung úy Q., người chỉ huy trận đánh và cũng là đại đội trưởng của Uy. Theo anh thì Uy chết ngay loạt đạn đầu tiên vì bị phục kích. Việt cộng đào hầm độn thổ từ trước, có đến cỡ tiểu đoàn. Chúng chờ phục kích đoàn công voa của tỉnh từ Sông Mao về. Trung đội của Uy phát giác một phần của lực lượng địch nằm dưới hầm bắn lên. Với gia đình, bè bạn của Uy, với văn học Việt Nam, anh chết là một mất mát lớn lao. Còn như đối với chính quyền Phan Thiết, với đại đội 784 Địa phương quân thì đây là một chiến thắng: địch để lại trên 40 xác chết; bên ta chỉ có một chuẩn uý và hai binh sĩ hy sinh.

11.1.69

Tôi nghĩ Uy sẽ không bị chết nếu bị bắt, nếu Uy biết cách nói cho những người ở phía bên kia biết Uy là một nhà văn. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp sau khi bị bắt, Uy sẽ được ra Hà Nội, và guồng máy tuyên truyền phía bên kia sẽ khai thác nhà văn của chúng ta. Nhưng tất cả những điều tôi tưởng tượng đều trái ngược với thực tế, một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn: Y Uyên sau khi chết rồi còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai và đâm bồi thêm mấy nhát dao ở hai cánh tay và hai bên hông.

Tôi không có mặt khi bạn hữu tẩm liệm chàng, nhưng Học nói lại những nhận định như thế khi quan sát xác chết với những đầu đạn, dấu dao trên mình chàng. Có những dấu đạn người ta biết được là từ đâu, như thế nào, và người ta cũng biết được nhũng dấu đạn nào là vô ích, là của hận thù. Trên thân xác của Uy, khi chở anh về quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.

Từ những dấu đạn, vết dao đó, tôi có một nhận định về những người ở bên kia chiến tuyến. Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, dòng dã hơn hai mươi năm này, những người lãnh đạo cộng sản đã dạy cho binh lính của họ như thế nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý.

Những viên đạn bắn bồi, nhũng nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người cộng sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín. Từ đó chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên cuộc chiến tương tàn này.

12.1.69

Tôi có đọc Y Uyên, nhưng anh không phải là một nhà văn tôi thích. Người ta chỉ chọn thích một số nào đó thôi trong những tác giả mình đọc. Tôi thì không thích Y Uyên vì văn anh khô và khó quá.. Không thích, nhưng tôi không thể không đọc anh vì anh là một trong số nhà văn có chân tài. Ngay từ những tác phẩm đầu – Những tác phẩm dù không toàn bích – Bút pháp của anh đã khiến người ta chú ý và tin tưởng. Hai mươi sáu tuổi, bốn tác phẩm đã in (hầu hết, do những nhà xuất bản đứng đắn,có uy tín ấn hành), điều đó thiết nghĩ đã đủ để chứng tỏ anh không phải là một tác giả có thể xem thường và sự thành công của anh không phải chỉ là một may mắn, tình cờ, như một vài trường hợp khác.

Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều chuyện thời chiến, lúc đó anh còn là nhà giáo, nên chuyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại.

Nhưng nay, anh lại là lính chiến, thứ lính chiến của một chiến trường thường xuyên sôi động là Bình Thuận – nơi mà Cộng Sản đã có cơ sở từ năm 1954 – hẳn nhiên anh phải thường xuyên mở to đôi mắt, lắng đôi tai để đối đầu. Trong chờ đợi, trong tham dự, hẳn anh quan sát được nhiều. Từ đó, chúng ta đủ tin rằng, nếu anh sống, biết đâu từ anh, văn học Việt Nam sẽ chẳng có những tác phẩm viết về chiến tranh bình tĩnh sâu sắc và lớn lao.

Nhà văn Việt Nam, trong chiến tranh Việt Nam, đã thiếu thốn quá nhiều thứ. Hoàn cảnh để sống, phương tiện để viết và nhất là, họ thiếu sự rõ ràng của chính nghĩa để phụng thờ, để làm sáng tỏ. Nhà văn Việt Nam, sống trong sự mù mờ, dường như đã thiếu tin tưởng ở những lẽ phải để phụng dưỡng, nuôi nấng. Từ một hoàn cảnh như thế, một tâm trạng như thế, nói ra những nhận định của mình, nhất là nói ra một cách bộc trực, sợ dễ dàng sai lạc và không chừng lại đắc tội với lịch sử.

Giờ đây, một trong những nhà văn trẻ của chúng ta, một trong những cây bút sống, lớn và viết về cuộc sống đang tàn phá chúng ta, đã nằm xuống – hay nói theo kiểu một nhà thơ trẻ khác – đã ‘’về trời’’. Chỗ anh ta nhắm mắt là dưới chân núi Tà Dôn, nơi nổi tiếng từ những ngày chiến tranh Việt Nam (trong chiến trường Phan Thiết, núi được xem là đích cho những lần hành quân và bố phòng).

Sau ngày anh ta mất đi, những chiến hữu của anh sống trong sôi bỏng của chiến trường Bình Thuận, nhìn về núi Tà Dôn như một ám ảnh của Định Mệnh. Họ thầm nghĩ,một mai, một ngày nào đó, chẳng biết rồi sẽ tới phiên ai trong bọn họ ? Rồi họ sẽ quay đầu hay quay chân về phía núi để cố thu lấy những hình ảnh cuối cùng của cuộc đời trước khi nhắm mắt ? Vì rằng, như một nhận thức, gần như thế trong cuộc chiến dai dẳng này, cái chết là một cái vốn mà ai cũng nắm dễ dàng trong tay, còn như số lời thì đã trở nên hiếm hoi lắm lắm.

1.3.69

Uy ơi, anh bỏ đi thế mà đã hơn hai tháng. Nay tôi thuyên chuyển về đồn Sara, cách chỗ xưa anh đóng khoảng 4 cây số, cách chỗ xưa anh chết khoảng 3 cây số.

Mới hơn hai tháng trời, mà nay nhắc tới anh đã như nhắc chuyện ‘’ngày xưa..’’. Có phải tôi say? Không biết nữa, chỉ biết mỗi lần nhớ đến anh là mắt tôi lại rưng rưng muốn khóc. Mà không phải chỉ khóc cho anh. Tôi về gần rồi đó, chỗ xưa anh nhắm mắt và ngọn Tà Dôn như tôi chỉ với một tay là tới đỉnh. Mỗi ngày tôi mở mắt cùng với tiếng la om sòm của những chiếc xe đò lui tới, và ban đêm tôi nhắm mắt lại cùng với tiếng chim te te. Và bao giờ, và ở đâu, cái chết của anh dưới chân Tà Dôn này cũng là điều làm tôi nhớ, nhớ hoài hoài không thôi. Tôi định một ngày rất gần, sẽ dắt lính lên vùng trận địa anh ngã, thăm lại con suối anh chúi xuống để chết. Hình như cỏ ở đó xanh hơn mọi ngày, và một bóng Ngựa Tía chờn vờn mỗi đêm trên ngọn Tà Dôn – ngọn Tà Dôn, vùng đất Quê Nhà của anh rồi đó – quẩn quanh bên những Tượng Đá Sườn Non. Nhưng tất cả, phải còn gì nữa chứ? Chẳng lẽ như thế rồi hết! Tôi không tin đâu. Qua cơn Bão Khô này .. những gì còn lại … hơn là những dấu chân anh …